Thông tin chuyên ngành Xi măng Việt Nam

Thị trường VLXD

Kỳ vọng thị trường vật liệu xây dựng tiếp tục tăng trưởng trong năm 2021

14/01/2021 10:18:38 AM

Bước qua năm 2020, dù chịu tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, khiến năng suất và sản lượng của ngành vật liệu xây dựng chịu không ít "lao đao" vì thiếu thị trường tiêu thụ nhưng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn ghi nhận những kết quả khả quan, sản xuất ổn định, tăng trưởng dương.

Nguồn cầu thị trường vật liệu xây dựng 2021 đang chờ nguồn cung

Hết năm 2020, Bộ Xây dựng thống kê, lượng xi măng tiêu thụ đạt 74 triệu tấn, kính xây dựng đạt 171 triệu m2, sứ vệ sinh đạt 12,8 triệu sản phẩm, đá ốp lát đạt 12 triệu m2, gạch ốp lát đạt 452 triệu m2, vôi công nghiệp đạt 1,5 triệu tấn, tấm lợp fibro xi măng đạt trên 33 triệu m2...

Đối với lĩnh vực vật liệu xây dựng không nung, việc đầu tư, sản xuất và sử dụng vật liệu xây dựng không nung đã có sự chuyển biến tích cực; các công nghệ mới, thiết bị mới sản xuất được đầu tư, phát triển và các sản phẩm vật liệu xây dựng không nung đa dạng, phong phú về chủng loại, chất lượng, đáp ứng nhu cầu thị trường.

Đặc biệt, sau 10 năm thực hiện Chương trình 567 (Chương trình Phát triển Vật liệu xây dựng không nung theo Quyết định số 567/QĐ-TTg), tổng công suất thiết kế của 3 loại sản phẩm chính là gạch bê tông (gạch xi măng cốt liệu), gạch bê tông khí chưng áp (AAC) và gạch bê tông bọt đến năm 2020 đạt khoảng 10,2 tỷ viên/năm.

Mặc dù vậy, hiện nay, các doanh nghiệp chỉ phát huy được trên 40% công suất thiết kế, sản lượng sản xuất đạt khoảng 5 tỷ viên, chiếm trên 25% so với tổng sản lượng vật liệu xây dựng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp đã tiết kiệm được khoảng 7,5 triệu m3 đất sét (tương đương 375 ha đất khai thác ở độ sâu 2m), giảm tiêu thụ khoảng 750.000 tấn than và giảm thải ra môi trường khoảng 2,85 triệu tấn CO2. Đây là kết quả ấn tượng góp phần giảm thải gây ô nhiễm môi trường và giảm quá trình suy giảm diện tích đất nông nghiệp.

Theo ông Phạm Văn Bắc, Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng), ngành vật liệu xây dựng cần ưu tiên đầu tư các dự án sản xuất vật liệu xây dựng mới, các dự án công suất lớn sử dụng công nghệ tiên tiến; các dự án sản xuất vật liệu xây dựng sử dụng khối lượng lớn chất thải từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp và rác thải sinh hoạt; kết hợp việc sử dụng khoáng sản tự nhiên với việc sử dụng vật liệu tái chế. Đồng thời, tận dụng tối đa tro, xỉ, thạch cao phát thải từ các nhà máy nhiệt điện, hóa chất, phân bón và các cơ sở công nghiệp khác làm nguyên liệu, phụ gia sản xuất vật liệu xây dựng.

Nhu cầu thép sẽ tăng

Nhận định về thị trường thép năm 2021, SSI Research ước tính nhu cầu thép sẽ tăng khoảng 3 - 5% từ mức cơ sở thấp trong năm 2020, nhờ kỳ vọng kinh tế vĩ mô chung phục hồi, cùng với hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng đặc biệt là các dự án trọng điểm mang tính cấp bách như cao tốc Bắc - Nam phía Đông, cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ, sân bay quốc tế Long Thành...


Bên cạnh đó, Việt Nam còn có cơ hội lớn trong thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nhờ khả năng kiểm soát tốt dịch bệnh, chi phí nhân công rẻ.... Do vậy, khi các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam thì nhu cầu đầu tư nhà xưởng, khu công nghiệp sẽ tăng lên, kéo theo nhu cầu về thép xây dựng tăng theo.

Ngoài ra, các cơ hội từ hội nhập đặc biệt là việc thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA cũng được kỳ vọng thúc đẩy ngành thép sản xuất, xuất khẩu ra các thị trường mới.

Đối với CPTPP, việc gỡ bỏ loạt thuế quan sẽ giúp các doanh nghiệp ngành thép Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu đồng thời nhập khẩu nguyên liệu từ các quốc gia có lợi thế như Australia.

Trước đó, ASEAN và Mỹ là hai thị trường dẫn đầu về xuất khẩu thép của Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ tăng cao, theo các chuyên gia, việc chuyển hướng xuất khẩu, mở rộng sang các thị trường khác là cần thiết.

Tuy nhiên, thị trường các nước EU ở trạng thái bão hòa với các giao dịch thương mại thép, các hoạt động chủ yếu trong nội khối. Theo số liệu của VSA, thị trường EU chiếm khoảng 4,2% tổng lượng xuất khẩu thép của Việt Nam. Trong khi đó, thị trường truyền thống là ASEAN, Trung Quốc vẫn chiếm tỷ lệ lớn, lần lượt gần 55% và 19%...

Do đó, để vào được thị trường EU, đòi hỏi các sản phẩm phải đạt rất nhiều tiêu chuẩn cao và khắt khe. Các nhà sản xuất thép Việt Nam muốn đáp ứng được tiêu chuẩn đó phải cải tiến công nghệ, kỹ thuật, thay đổi các quy trình sản xuất của mình, thay đổi các phương thức kinh doanh.

Bệ đỡ chính sách hỗ trợ

Ngày 18/8/2020, tại Quyết định 1266/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức ban hành Chiến lược phát triển VLXD Việt Nam giai đoạn 2021-2030, định hướng đến năm 2050. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển ngay từ đầu năm 2021.

Chiến lược đặt mục tiêu đến năm 2025, các nhà máy xi măng hiện có công suất nhỏ hơn 2.500 tấn clanke/ngày, tiêu hao nhiều nguyên, nhiên liệu và năng lượng lớn, phải đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường.

Đối với kính xây dựng, tiếp tục đầu tư sản xuất các sản phẩm kính có chất lượng cao, có giá trị kinh tế cao như: Kính tiết kiệm năng lượng, kính siêu trắng, siêu mỏng, kính cho pin năng lượng, kính chống cháy...; đầu tư chiều sâu cải tạo các cơ sở sản xuất kính có công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ, tiêu hao nhiều nguyên, nhiên liệu, năng lượng và chất lượng sản phẩm thấp, đáp ứng đầy đủ các chỉ tiêu về công nghệ và môi trường…

Để đạt được những mục tiêu trên, Chiến lược đưa ra 7 giải pháp thực hiện, gồm: Hoàn thiện thể chế, chính sách; khai thác tài nguyên khoáng sản hiệu quả, tiết kiệm; đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ; đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm vật liệu xây dựng trong nước và xuất khẩu; đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; nâng cao năng lực chế tạo thiết bị; bảo vệ môi trường trong sản xuất.

ximang.vn (TH/ Tin tức)

 

Các tin khác:

Năm 2020: Tiêu thụ thép tại Đông Nam Á khoảng 73,3 - 75,3 triệu tấn do ảnh hưởng của Covid-19 ()

Maroc: Thị trường xuất khẩu vật liệu xây dựng tiềm năng ()

Năm 2021: Dự báo nhu cầu nhập khẩu thép và xi măng tăng cao của Trung Quốc ()

Thị trường vật liệu xây dựng trên đà phục hồi và tăng trưởng trở lại ()

Năng lực sản xuất ngành vật liệu xây dựng Việt Nam tăng 2 - 3 lần ()

Vật liệu xây dựng chịu sức ép cạnh tranh từ thị trường nhập khẩu ()

Dự báo ngành vật liệu xây dựng sẽ khởi sắc trong năm 2021 ()

Master Builders Solutions thông báo tăng giá sản phẩm hóa chất xây dựng ()

TP.HCM: Thị trường vật liệu xây dựng bắt đầu khởi sắc trở lại ()

Vũng Tàu: Thị trường vật liệu xây dựng ảm đạm ()

TIN MỚI

ĐỌC NHIỀU NHẤT

banner vicem 2023
banner mapei2
bannergiavlxd
faq

Bảng giá :

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee

1.000đ/tấn

1.800

Starcemt

1.000đ/tấn

1.760

Chifon

1.000đ/tấn

1.530

Hoàng Thạch

1.000đ/tấn

1.490

Bút Sơn

1.000đ/tấn

1.450

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee đa dụng

1.000đ/tấn

1.830

Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.670

Vicem Hà Tiên

1.000đ/tấn

1.650

Tây Đô

1.000đ/tấn

1.553

Hà Tiên - Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.440

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Xem bảng giá chi tiết hơn

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.940

Việt Ý

đồng/kg

18.890

Việt Đức

đồng/kg

18.880

Kyoei

đồng/kg

18.880

Việt Nhật

đồng/kg

18.820

Thái Nguyên

đồng/kg

19.390

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

19.040

Việt Ý

đồng/kg

18.990

Việt Đức

đồng/kg

19.180

Kyoei

đồng/kg

19.080

Việt Nhật

đồng/kg

18.920

Thái Nguyên

đồng/kg

19.540

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.890

Việt Ý

đồng/kg

18.840

Việt Đức

đồng/kg

18.830

Kyoei

đồng/kg

18.830

Việt Nhật

đồng/kg

18.770

Thái Nguyên

đồng/kg

19.340

Xem bảng giá chi tiết hơn

Vicem hướng tới công nghệ mới ngành Xi măng

Xem các video khác

Thăm dò ý kiến

Theo bạn, yếu tố nào thúc đẩy tiêu thụ VLXD hiện nay?