Thông tin chuyên ngành Xi măng Việt Nam

Thị trường xi măng

Bức tranh toàn cảnh ngành Xi măng trong năm 2023

20/02/2024 9:10:36 AM

» Năm 2023 là năm khó khăn chưa từng có trong lịch sử của ngành Xi măng Việt Nam, đến từ nội tại ngành và cả yếu tố bên ngoài bất khả kháng. Các doanh nghiệp xi măng đang nỗ lực tái cấu trúc, hướng tới sản xuất xanh, tiết kiệm tài nguyên. Hy vọng năm mới 2024, bức tranh có thêm nhiều gam màu tươi sáng hơn.
 

Khó khăn trong nội tại ngành Xi măng là do nguồn cung vượt quá so với nhu cầu. Hiện nay, cả nước có 58 nhà máy, với 83 dây chuyền, công suất thiết kế 112,5 triệu tấn/năm. Nhưng do ứng dụng cải tạo chiều sâu nên công suất thực tế có thể lên tới gần 120 triệu tấn/năm, trong khi tiêu thụ xi măng toàn xã hội giảm tới 16,9%, so với năm 2022.

Giải quyết dư thừa bằng cách xuất khẩu xi măng nhưng năm 2023 dù xuất khẩu 31,3 triệu tấn, bằng 99,5% so năm 2022 nhưng giá xuất khẩu xi măng, clinker (FOB Quảng Ninh) giảm sâu so với cuối năm 2022, cụ thể, giá xi măng giảm 5 - 6 USD/tấn, giá clinker giảm 9 - 10 USD/tấn.

Bên cạnh đó, các yếu tố bất khả kháng liên quan đến giá nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất xi măng, mặc dù đã giảm, nhưng vẫn ở mức cao. 

PGS.TS Lương Đức Long, Tổng Thư ký Hiệp hội Xi măng Việt Nam nhận định, giai đoạn này, ngành Xi măng đang chịu áp lực lớn, khi khả năng hấp thụ xi măng của nền kinh tế trong nước kém. Giá điện, than và các nguyên nhiên liệu đầu vào cho sản xuất đều tăng, có thời điểm giá than tăng gấp 3 lần; năm 2023, giá bán lẻ điện bình quân tăng 7,5%... Mặt khác, doanh nghiệp xi măng trong nước đang phải chịu bất lợi khi thuế xuất khẩu clinker tăng từ 5% lên 10%, từ ngày 01/01/2023, không được áp dụng luật thuế giá trị gia tăng.

Tất cả những khó khăn đó đẩy ngành Xi măng vào thế khó, tiến thoái lưỡng nan. Nếu doanh nghiệp không đủ sức cạnh tranh, không thay đổi buộc phải dừng lại. Một số nhà máy có vốn vay đầu tư lớn, nợ ngân hàng nhiều có thể phá sản hoặc phải bán tháo cho nước ngoài. Tính đến thời điểm hiện tại, đã có 8 dây chuyền sản xuất xi măng phải ngừng hoạt động, nhiều nhà máy phải dừng 1 hoặc 2 dây chuyền để giảm lượng tồn kho xi măng.


Theo tính toán của Hiệp hội Xi măng Việt Nam, năm 2023, cả nước sản xuất và tiêu thụ gần 88,6 triệu tấn xi măng và clinker, đạt gần 79% năng lực sản xuất của 83 dây chuyền, khoảng 70% năng lực thực tế. Tiêu thụ xi măng nội địa năm 2023 đạt 57,083 triệu tấn, bằng 84,3% tiêu thụ nội địa năm 2022.

Mỗi doanh nghiệp sẽ phải có giải pháp, chiến lược khác nhau để vượt qua khó khăn, thách thức, trong giai đoạn hiện nay. Nhưng một giải pháp chung được nhiều doanh nghiệp xi măng lớn thực hiện, đó là đổi mới sáng tạo, hướng tới nền sản xuất xanh, tiết kiệm tài nguyên. Đây cũng là hướng đi tất yếu của ngành Xi măng trong tương lai, hướng đến sản xuất xanh và kinh tế tuần hoàn.

Theo ông Đào Nguyên Khánh, Trưởng bộ phận PTBV và Truyền thông Insee Việt Nam cho biết, Insee Việt Nam chọn giải pháp đẩy mạnh cải tiến công nghệ, tối ưu hóa chi phí sản xuất. Ban lãnh đạo Insee Việt Nam quyết định dừng 1 trạm nghiền để tối ưu hóa chi phí, đồng thời gia tăng xử lý chất thải, tăng tỷ lệ thay thế nhiệt. Trạm nghiền Hòn Chông của Insee Việt Nam đạt kỷ lục mới, giảm chi phí và biến phí rất lớn.

Hay như Vicem là doanh nghiệp xi măng lớn nhất Đông Nam Á, có vai trò dẫn dắt, bình ổn thị trường xi măng Việt Nam. Trong giai đoạn này, Vicem tập trung đổi mới sáng tạo, tiết kiệm chi phí, tăng cường sử dụng rác thải làm nhiên nguyện liệu thay thế, sử dụng bùn thải thay thế sét, sử dụng thạch cao nhân tạo thay thế thạch cao tự nhiên; nghiên cứu sản phẩm mới giảm phát thải ra môi trường, góp phần tiết giảm chi phí sản xuất, bảo vệ môi trường, giảm sử dụng tài nguyên không tái tạo.

Một giải pháp nữa được nhiều doanh nghiệp xi măng lựa chọn đó là tiết giảm chi phí, tái cấu trúc doanh nghiệp, tập trung chuyển đổi số, số hóa trong sản xuất kinh doanh.

Nhận định năm 2024 nhu cầu xi măng trong nước khó tăng trưởng cao. Việc giải ngân vốn đầu tư công tại các địa phương còn chậm, do vướng mắc về thủ tục pháp lý, giải phóng mặt bằng... Thị trường bất động sản sẽ phục hồi nhưng chưa thể sôi động ngay trở lại. Bên cạnh đó, nguồn cung xi măng tiếp tục vượt xa cầu, một số dây chuyền mới có thể đi vào sản xuất như: Vissai Đại Dương 2, Xi măng Xuân Sơn...

Xuất khẩu xi măng, clinker dự báo sẽ tiếp tục gặp khó do thị trường bất động sản Trung Quốc chưa có dấu hiệu phục hồi; xi măng của Trung Quốc dư thừa, sẽ cạnh tranh với xi măng Việt Nam vào các thị trường như Philippines, Trung Mỹ, Nam Phi... Thêm vào đó, từ tháng 10/2023, châu Âu bắt đầu triển khai cơ chế điều chỉnh biên giới carbon đối với xi măng nhập khẩu, sẽ là thách thức lớn với doanh nghiệp xuất khẩu xi măng sang châu Âu.

Theo PGS.TS Lương Đức Long, Tổng Thư ký Hiệp hội Xi măng Việt Nam, thị trường tiêu thụ xi măng năm 2024 sẽ khá hơn năm 2023, do nước ta đang trong quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng nên nhu cầu sử dụng xi măng còn nhiều. Với sự quyết liệt của Chính phủ, đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ, hy vọng năm 2024 tốc độ giải ngân vốn đầu tư công sẽ khá hơn.

Quy luật thông thường là đường tăng trưởng GDP và tăng trưởng xi măng đồng biến; nghĩa là GDP tăng thì tiêu thụ xi măng sẽ tăng. Tăng trưởng tiêu thụ xi măng trong nước từ năm 2013 đến 2023 (bình quân số học) chỉ đạt 2,35%, trong khi bình quân tăng trưởng GDP giai đoạn này là 5,71%. Như vậy, trong 11 năm vừa qua, mức tăng trưởng tiêu thụ xi măng nội địa của Việt Nam thấp.

Để giúp ngành Xi măng vượt qua khó khăn hiện nay, TS. Nguyễn Quang Hiệp, Phó vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng cho rằng, ngoài đẩy nhanh triển khai các dự án đầu tư công, xây dựng kết cấu hạ tầng, tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản; đẩy nhanh đầu tư xây dựng 1 triệu căn nhà ở xã hội thì về chính sách thuế, kiến nghị Chính phủ tạm hoãn việc tăng thuế xuất khẩu clinker từ 5% lên 10% và tạm giữ mức thuế suất xuất khẩu clinker ở mức cũ 5% thêm 2 năm. Đồng thời, kiến nghị Chính phủ xem xét, sửa đổi chính sách thuế giá trị gia tăng đối với sản phẩm clinker xuất khẩu, theo hướng sản xuất clinker xuất khẩu không thuộc đối tượng hàng hóa không chịu thuế giá trị gia tăng.

Đại diện Hiệp hội Xi măng Việt Nam kiến nghị, khẩn trương ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn về việc sử dụng nguyên, nhiên liệu thay thế cho các ngành công nghiệp, trong đó có ngành Xi măng. Có chính sách khuyến khích về thuế, tài chính cho nhà máy sử dụng nguyên, nhiên liệu thay thế. Tạo điều kiện để việc vận chuyển, tái sử dụng các chất thải, rác thải làm nguyên, nhiên liệu thay thế được thuận tiện. Cần ban hành các quy định, hướng dẫn các nhà máy xi măng thực hiện kiểm kê, báo cáo phát thải khí nhà kính.

ximang.vn (TH/ Xây dựng)

 

Các tin khác:

Năm 2023: Việt Nam xuất khẩu hơn 31,3 triệu tấn clinker và xi măng ()

Sản lượng tiêu thụ xi măng kỳ vọng được phục hồi trong năm 2024 ()

Tháng 11: Xuất khẩu xi măng và clinker giảm cả về lượng và giá trị ()

Cần thêm cơ chế, chính sách hỗ trợ để tháo gỡ khó khăn cho ngành Xi măng ()

Ngành Xi măng đối mặt với nhiều thách thức ()

Nhiều rào cản khi xuất khẩu xi măng ()

Ngành Xi măng khó thoát tăng trưởng âm trong năm 2023 ()

10 tháng: Xuất khẩu xi măng và clinker đạt hơn 26 triệu tấn ()

Thanh Hóa dẫn đầu cả nước cả về công suất và sản lượng sản xuất xi măng ()

Tháng 9: Xuất khẩu clinker và xi măng giảm cả về lượng và giá trị ()

TIN MỚI

ĐỌC NHIỀU NHẤT

banner vicem 2023
banner mapei2
bannergiavlxd
faq

Bảng giá :

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee

1.000đ/tấn

1.800

Starcemt

1.000đ/tấn

1.760

Chifon

1.000đ/tấn

1.530

Hoàng Thạch

1.000đ/tấn

1.490

Bút Sơn

1.000đ/tấn

1.450

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee đa dụng

1.000đ/tấn

1.830

Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.670

Vicem Hà Tiên

1.000đ/tấn

1.650

Tây Đô

1.000đ/tấn

1.553

Hà Tiên - Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.440

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Xem bảng giá chi tiết hơn

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.940

Việt Ý

đồng/kg

18.890

Việt Đức

đồng/kg

18.880

Kyoei

đồng/kg

18.880

Việt Nhật

đồng/kg

18.820

Thái Nguyên

đồng/kg

19.390

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

19.040

Việt Ý

đồng/kg

18.990

Việt Đức

đồng/kg

19.180

Kyoei

đồng/kg

19.080

Việt Nhật

đồng/kg

18.920

Thái Nguyên

đồng/kg

19.540

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.890

Việt Ý

đồng/kg

18.840

Việt Đức

đồng/kg

18.830

Kyoei

đồng/kg

18.830

Việt Nhật

đồng/kg

18.770

Thái Nguyên

đồng/kg

19.340

Xem bảng giá chi tiết hơn

Vicem hướng tới công nghệ mới ngành Xi măng

Xem các video khác

Thăm dò ý kiến

Theo bạn, yếu tố nào thúc đẩy tiêu thụ VLXD hiện nay?