Đầu tư công - động lực cho phát triển kết cấu hạ tầng?
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ sẽ góp phần bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh, phát triển các lĩnh vực xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Đầu tư công là một kênh quan trọng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, Nhà nước buộc phải cắt giảm đầu tư công để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Vậy đâu là giải pháp cho việc phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ?
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ sẽ góp phần bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh, phát triển các lĩnh vực xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Đầu tư công là một kênh quan trọng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, Nhà nước buộc phải cắt giảm đầu tư công để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Vậy đâu là giải pháp cho việc phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ?
Hạ tầng yếu kém do đầu tư dàn trải, lãng phí
Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, cần đẩy mạnh xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Việc đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước, góp phần bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh, phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội, giảm nhẹ thiên tai, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống nhân dân, xoá đói, giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng, miền.
Tuy nhiên, thời gian qua, việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế, yếu kém trước hết do tư duy về phát triển kết cấu hạ tầng chậm đổi mới, chưa phù hợp với cơ chế thị trường. Nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng vẫn chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, chưa huy động được nhiều nguồn lực khác. Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà nước về đầu tư công còn nhiều bất cập thiếu đồng bộ, nhiều quy định chưa phù hợp. Theo TS Nguyễn Minh Phong, việc phân cấp trong đầu tư công khá mạnh, nhưng lại thiếu cơ chế giám sát và quản lý có hiệu quả. Chất lượng quy hoạch còn thấp, thiếu tính đồng bộ, bao quát, kết nối và tầm nhìn dài hạn. Phân bổ nguồn lực dàn trải, chi phí đầu tư còn cao, hiệu quả thấp. Đồng quan điểm, TS Trần Đình Thiên - Viện trưởng Viện Kinh tế nêu ý kiến: Báo cáo của chính các cơ quan nhà nước cho thấy một nền kinh tế với GDP mới đạt 130 tỷ USD mà Việt Nam đang có tới 100 cảng biển. Còn nếu dễ tính trong phân loại, Việt Nam có tới 260 cảng biển. Cùng với đó là "phong trào” làm khu công nghiệp, hiện Việt Nam đã có 18 khu kinh tế ven biển, 30 khu kinh tế cửa khẩu, hơn 650 cụm công nghiệp... Viện trưởng Thiên cho rằng, các tổ chức công nghiệp đó rất "li ti”, dù thành lập trên bất cứ chuẩn mực nào thì đều cho thấy sự dàn trải, phân tán và lãng phí.
Có nên tăng đầu tư công để phát triển hạ tầng?
Phát biểu tại Hội nghị "Nêu ý kiến và kiến nghị của nhân dân với Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam”, TS Lê Xuân Nghĩa - thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cho rằng, trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay, cần tăng đầu tư công để phát triển kinh tế - xã hội. Ông Nghĩa đưa ra quan điểm: Đã thắt chặt tiền tệ thì đừng thắt chặt ngân sách hoặc ngược lại. Đằng này Chính phủ lại thắt chặt cả hai, thì khác gì tự trói cả hai tay mình. Ông Nghĩa phân tích: "Nếu trói một tay thì còn có tay kia mà xoay sở, đằng này cả hai tay bị trói nên đành đứng trơ ra trước bão táp của suy thoái kinh tế toàn cầu. Việt Nam muốn phát triển kinh tế nhanh thì cần phải tăng đầu tư công...”.
Theo các chuyên gia kinh tế, đúng là khi tăng đầu tư công vào các lĩnh vực như giao thông, năng lượng điện, công trình thủy lợi... thì sẽ tạo động lực cho các lĩnh vực khác phát triển. Đầu tư công vào cơ sở hạ tầng sẽ như một hình thức kích cầu: Kích thích các ngành sản xuất như sắt, thép, xi măng... phát triển, kéo theo các ngành khác phát triển vì rất nhiều sản phẩm của ngành này là nguyên liệu đầu vào của ngành khác. Từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn, tránh giảm phát. Tuy nhiên, có một nghịch lý là tăng trưởng tín dụng theo hướng đầu tư công có thể sẽ gây lạm phát. Sốt rất cao nhưng nếu uống thuốc thì huyết áp lại tăng. Để giải quyết mâu thuẫn này, TS Nghĩa cho rằng cần chấp nhận "trả giá” lạm phát ở một mức nhất định để phá băng tín dụng. "Chúng ta phải chấp nhận lạm phát năm lên tới 9% vì mục tiêu phá băng tín dụng. Mà muốn làm được điều đó thì phải tăng đầu tư công, vì đầu tư công chiếm 30% tín dụng. Nếu chưa đẩy lui được tham nhũng thì chúng ta tạm chấp nhận thất thoát một phần để phá băng tín dụng...” - ông Nghĩa đề nghị.
Vậy nhưng đa số các chuyên gia kinh tế khác lại cho rằng trong giai đoạn hiện nay không nên tăng đầu tư công. TS Lê Đăng Doanh - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã thẳng thắn đánh giá: Đầu tư công của Việt Nam ngày càng kém hiệu quả: Giai đoạn 1991-1995, tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội của Việt Nam chỉ ở mức 28,2% GDP, nhưng đất nước đã đạt tăng trưởng 8,2%. Giai đoạn 2006-2010, đầu tư toàn xã hội lên đến 42% GDP nhưng tăng trưởng chỉ 6,9%. "Ta đang đi vào mâu thuẫn về việc đầu tư càng cao thì tăng trưởng càng giảm...” - TS Doanh nói. Còn TS Vũ Đình Ánh khẳng định: Việt Nam đang đi vay cả trong nước và nước ngoài để đầu tư. Do vậy nợ công của Việt Nam đang ngày càng lớn, chi trả nợ bình quân đã chiếm 12-15% tổng chi ngân sách. TS Nguyễn Đình Phong cũng cho rằng, không nên tăng đầu tư công mà chỉ nên nới lỏng có điều kiện. Như vậy vừa không bị thất thoát vốn, vừa kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Phát triển hạ tầng bằng nhiều nguồn lực
Để nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 theo tinh thần Đại hội XI thì nhất thiết phải phát triển nhanh hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ. Trong bối cảnh lạm phát đang quay trở lại ở mức cao, chúng ta không thể tăng đầu công, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc được phép "tạm ngừng” phát triển cơ sở hạ tầng. Để giải quyết bài toán này, chính trong Nghị quyết Trung ương 4 cũng đã chỉ rõ: Cần đa dạng hóa nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, không trông chờ nguồn vốn ngân sách của Nhà nước, mà cần có sự tham gia của toàn xã hội, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp vào các dự án giao thông, khu công nghiệp, khu đô thị mới và đóng góp tự nguyện của nhân dân vào phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn.
Theo TS Lê Đăng Doanh, Nhà nước cần thay đổi quan điểm đầu tư công, chỉ đầu tư vào những công trình công cộng mà kinh tế tư nhân không thể đầu tư. Cần thu hút vốn từ khu vực tư nhân cùng đầu tư với Nhà nước. Có như vậy, mục tiêu phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 mới thành hiện thực.
Hạ tầng yếu kém do đầu tư dàn trải, lãng phí
Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, cần đẩy mạnh xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Việc đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước, góp phần bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh, phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội, giảm nhẹ thiên tai, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống nhân dân, xoá đói, giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng, miền.
Tuy nhiên, thời gian qua, việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế, yếu kém trước hết do tư duy về phát triển kết cấu hạ tầng chậm đổi mới, chưa phù hợp với cơ chế thị trường. Nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng vẫn chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, chưa huy động được nhiều nguồn lực khác. Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà nước về đầu tư công còn nhiều bất cập thiếu đồng bộ, nhiều quy định chưa phù hợp. Theo TS Nguyễn Minh Phong, việc phân cấp trong đầu tư công khá mạnh, nhưng lại thiếu cơ chế giám sát và quản lý có hiệu quả. Chất lượng quy hoạch còn thấp, thiếu tính đồng bộ, bao quát, kết nối và tầm nhìn dài hạn. Phân bổ nguồn lực dàn trải, chi phí đầu tư còn cao, hiệu quả thấp. Đồng quan điểm, TS Trần Đình Thiên - Viện trưởng Viện Kinh tế nêu ý kiến: Báo cáo của chính các cơ quan nhà nước cho thấy một nền kinh tế với GDP mới đạt 130 tỷ USD mà Việt Nam đang có tới 100 cảng biển. Còn nếu dễ tính trong phân loại, Việt Nam có tới 260 cảng biển. Cùng với đó là "phong trào” làm khu công nghiệp, hiện Việt Nam đã có 18 khu kinh tế ven biển, 30 khu kinh tế cửa khẩu, hơn 650 cụm công nghiệp... Viện trưởng Thiên cho rằng, các tổ chức công nghiệp đó rất "li ti”, dù thành lập trên bất cứ chuẩn mực nào thì đều cho thấy sự dàn trải, phân tán và lãng phí.
Có nên tăng đầu tư công để phát triển hạ tầng?
Phát biểu tại Hội nghị "Nêu ý kiến và kiến nghị của nhân dân với Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam”, TS Lê Xuân Nghĩa - thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cho rằng, trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay, cần tăng đầu tư công để phát triển kinh tế - xã hội. Ông Nghĩa đưa ra quan điểm: Đã thắt chặt tiền tệ thì đừng thắt chặt ngân sách hoặc ngược lại. Đằng này Chính phủ lại thắt chặt cả hai, thì khác gì tự trói cả hai tay mình. Ông Nghĩa phân tích: "Nếu trói một tay thì còn có tay kia mà xoay sở, đằng này cả hai tay bị trói nên đành đứng trơ ra trước bão táp của suy thoái kinh tế toàn cầu. Việt Nam muốn phát triển kinh tế nhanh thì cần phải tăng đầu tư công...”.
Theo các chuyên gia kinh tế, đúng là khi tăng đầu tư công vào các lĩnh vực như giao thông, năng lượng điện, công trình thủy lợi... thì sẽ tạo động lực cho các lĩnh vực khác phát triển. Đầu tư công vào cơ sở hạ tầng sẽ như một hình thức kích cầu: Kích thích các ngành sản xuất như sắt, thép, xi măng... phát triển, kéo theo các ngành khác phát triển vì rất nhiều sản phẩm của ngành này là nguyên liệu đầu vào của ngành khác. Từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn, tránh giảm phát. Tuy nhiên, có một nghịch lý là tăng trưởng tín dụng theo hướng đầu tư công có thể sẽ gây lạm phát. Sốt rất cao nhưng nếu uống thuốc thì huyết áp lại tăng. Để giải quyết mâu thuẫn này, TS Nghĩa cho rằng cần chấp nhận "trả giá” lạm phát ở một mức nhất định để phá băng tín dụng. "Chúng ta phải chấp nhận lạm phát năm lên tới 9% vì mục tiêu phá băng tín dụng. Mà muốn làm được điều đó thì phải tăng đầu tư công, vì đầu tư công chiếm 30% tín dụng. Nếu chưa đẩy lui được tham nhũng thì chúng ta tạm chấp nhận thất thoát một phần để phá băng tín dụng...” - ông Nghĩa đề nghị.
Vậy nhưng đa số các chuyên gia kinh tế khác lại cho rằng trong giai đoạn hiện nay không nên tăng đầu tư công. TS Lê Đăng Doanh - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã thẳng thắn đánh giá: Đầu tư công của Việt Nam ngày càng kém hiệu quả: Giai đoạn 1991-1995, tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội của Việt Nam chỉ ở mức 28,2% GDP, nhưng đất nước đã đạt tăng trưởng 8,2%. Giai đoạn 2006-2010, đầu tư toàn xã hội lên đến 42% GDP nhưng tăng trưởng chỉ 6,9%. "Ta đang đi vào mâu thuẫn về việc đầu tư càng cao thì tăng trưởng càng giảm...” - TS Doanh nói. Còn TS Vũ Đình Ánh khẳng định: Việt Nam đang đi vay cả trong nước và nước ngoài để đầu tư. Do vậy nợ công của Việt Nam đang ngày càng lớn, chi trả nợ bình quân đã chiếm 12-15% tổng chi ngân sách. TS Nguyễn Đình Phong cũng cho rằng, không nên tăng đầu tư công mà chỉ nên nới lỏng có điều kiện. Như vậy vừa không bị thất thoát vốn, vừa kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Phát triển hạ tầng bằng nhiều nguồn lực
Để nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 theo tinh thần Đại hội XI thì nhất thiết phải phát triển nhanh hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ. Trong bối cảnh lạm phát đang quay trở lại ở mức cao, chúng ta không thể tăng đầu công, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc được phép "tạm ngừng” phát triển cơ sở hạ tầng. Để giải quyết bài toán này, chính trong Nghị quyết Trung ương 4 cũng đã chỉ rõ: Cần đa dạng hóa nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, không trông chờ nguồn vốn ngân sách của Nhà nước, mà cần có sự tham gia của toàn xã hội, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp vào các dự án giao thông, khu công nghiệp, khu đô thị mới và đóng góp tự nguyện của nhân dân vào phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn.
Theo TS Lê Đăng Doanh, Nhà nước cần thay đổi quan điểm đầu tư công, chỉ đầu tư vào những công trình công cộng mà kinh tế tư nhân không thể đầu tư. Cần thu hút vốn từ khu vực tư nhân cùng đầu tư với Nhà nước. Có như vậy, mục tiêu phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 mới thành hiện thực.
Theo Báo Đại Đoàn Kết