Việt Nam từ nước nhập khẩu thành nước đứng đầu khu vực ASEAN về xuất
khẩu xi măng, nhưng các doanh nghiệp vẫn chưa thể yên tâm đẩy mạnh hoạt
động sản xuất hướng đến xuất khẩu khi chưa có một định hướng phát triển
ngành rõ ràng.
Bộ chuyên ngành ủng hộ, bộ quản lý phân vânBộ
Xây dựng đánh giá nguồn nguyên liệu sản xuất xi măng Việt Nam rất lớn,
có chất lượng tốt, trữ lượng đá vôn cả nước ước tính trên 32 tỷ tấn, đất
sét xi măng trên 4,6 tỷ tấn, phụ gia làm xi măng trên 3,6 tỷ tấn. Trong
đó, lượng đá vôi đã khảo sát, cấp phép khai thác đưa vào sản xuất xi
măng theo quy hoạch đến năm 2020 trên 12 tỷ tấn.
Ông Lê Văn Tới,
Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) đánh giá, với trữ lượng như
vậy, Việt Nam có đủ nguồn nguyên liệu để sản xuất xi măng hàng trăm
năm. Hơn nữa, sản xuất xi măng là chế biến sâu khoáng sản, sản phẩm xi
măng là kết quả của một chuỗi giá trị gia tăng. Nên giá trị gia tăng
măng lại từ hoạt động xuất khẩu rất cao. Chi phí đá vôi hiện nay khoảng 2
- 3 USD/tấn, trong khi giá trị xuất khẩu xi măng đạt 50 - 55 USD/tấn xi
măng, xuất khẩu clinker khoảng 40 USD/tấn.
Đồng quan điểm này,
ông Nguyễn Trần Nam, Thứ trưởng Bộ Xây dựng khẳng định, ngành xi măng
mới thực sự là mũi nhọn chứ không phải là sắt thép, luyện kim. Xuất khẩu
xi măng Việt Nam đi sau các nước ASEAN, nhưng ngành công nghiệp xi măng
phát triển mạnh hơn, đến nay Việt Nam đã đứng đầu ASEAN về xuất khẩu xi
măng. Năm 2014 Việt Nam sản xuất khoảng 71 triệu tấn xi măng, xuất khẩu
gần 20 triệu tấn. Trong 10 - 20 năm tới chúng ta hoàn toàn có thể đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu xi măng để khai thác tối đa công suất các nhà
máy hiện có.
Theo quy hoạch phát triển ngành xi măng, hiện cả
nước có 74 dây chuyền sản xuất xi măng đang vận hành, tổng công suất
thiết kế hơn 77 triệu tấn. Đến 2020 công suất sản xuất các nhà máy xi
măng trên cả nước sẽ cán ngưỡng 100 triệu tấn/năm. Trong khi đó, lượng
tiêu thụ xi măng trong nước hiện nay chỉ khoảng trên 50 triệu tấn/năm.
Xuất khẩu đang là một kênh tiêu thụ góp phần điều tiết thị trường xi
măng trong nước. Xuất khẩu xi măng hiện đạt xấp xỉ 1 tỷ USD/năm, con số 1
tỷ USD có thể dùy lâu dài nếu chúng ta có một định hướng xuất khẩu bền
vững.
Tuy nhiên theo ông Trần Tuấn Anh, Thứ trưởng Bộ Công Thương
thì việc tìm ra được giải pháp phát triển ngành xi măng Việt Nam không
phải tăng về khối lượng và sản lượng xi măng xuất khẩu mà cần phải được
đánh giá kỹ lưỡng. Cần nhấn mạnh rằng, khi nói đến hiệu quả trong xuất
khẩu có nghĩa là chúng ta phải nói đến những yếu tố mang tính bền vững
trong tương lai chứ không đơn thuần là tính đến giá trị xuất khẩu mà
chúng ta đã đạt được trong năm 2014 và những năm trước đó.
Hoạt
động xuất khẩu xi măng và clinker của Việt Nam cần được đánh giá một
cách cẩn trọng cũng như làm một cách toàn diện và gắn với thực tế của
Việt Nam. Trên thực tế xuất khẩu là việc cần thiết vì trong vòng 4 năm
nay, công suất sản xuất thực tế của xi măng Việt Nam đã vượt xa so với
nhu cầu tiêu dùng nội địa.Với thực tế như vậy thì giải pháp đặt ra đối
với việc tiêu thụ xi măng hàng năm bắt buộc phải tính đến yếu tố xuất
khẩu để đảm bảo hiệu quả sản xuất.
Trước mắt việc xuất khẩu xi
măng và clinker của Việt Nam đã có dấu hiệu tăng trưởng như thời gian
vừa qua và gắn với việc giá cả trên thị trường thế giới ổn định. Vì vậy,
có thể nói trước mắt mặt hàng xi măng chưa phải là mặt hàng trọng điểm
của xuất khẩu Việt Nam, tuy nhiên đã có vị thế nhất định và quan trọng
hơn cả là đã góp phần đưa ra giải pháp cho việc tiêu thụ đối với ngành
xi măng của Việt Nam.
Doanh nghiệp thiếu định hướng xuất khẩuĐại
diện TCty Xi măng Việt Nam (Vicem), ông Nguyễn Anh Quân cho rằng, nếu
không có xuất khẩu thì con số tồn ứ xi măng rất nhiều, xuất khẩu đã giúp
duy trì hoạt động các nhà máy xi măng hiện có, góp phần giải quyết công
ăn việc làm người lao động. Cung cầu trên thị trường xi măng không chỉ
thừa theo cơ cấu thị trường mà còn thừa theo mùa. Lò xi măng, các dây
chuyền sản xuất xi măng đã chạy không dừng được, đây là một đặc thù của
ngành công nghiệp xi măng.
Hơn nữa, trong số 106 doanh nghiệp sản
xuất và kinh doanh xi măng, clinker chỉ có 6 đơn vị xuất khẩu hàng đầu
là: Vissai, Phúc Sơn, Vicem, Hoàng Thạch, Cẩm Phả, Nghi Sơn. Song thời
gian qua hầu hết các đơn vị không mở rộng được thị trường, ngoài
Bangladesh, Singapore, Malaysia, Philippines, Đài Loan, Hong Kong (Trung
Quốc), Indonesia, và thông qua 3 nhà nhập khẩu chính là Biroute, Holcim
và HC Trading.
Cũng theo ông Nguyễn Anh Quân, rõ ràng, thông số
thị trường của các đơn vị đều giao thoa với nhau, nhà nhập khẩu không
của riêng một đơn vị nào, nếu không chia sẻ thông tin hoặc kết hợp với
nhau thành nhóm thì chắc chắn các doanh nghiệp xuất khẩu xi măng Việt
Nam sẽ bị lợi dụng để các đối tác cạnh tranh làm giá.
Thực tế
hoạt động xuất khẩu xi măng năm 2014 cũng cho thấy, có thời điểm khi giá
thị trường khu vực tăng 4 USD/ tấn, thì sản phẩm của Việt Nam chỉ tăng 1
USD/tấn. Ngược lại khi giá thế giới giảm chỉ 0,5 USD/tấn, thì giá của
các doanh nghiệp trong nước xuống tới 2 USD/tấn. Các nhà xuất khẩu xi
măng của Việt Nam đang tự làm khó nhau chứ không hoàn toàn do các đối
tác nhập khẩu làm giá.
Theo Thứ trưởng Nguyễn Trần Nam, hoạt động
xuất khẩu xi măng đang vướng ba vấn đề, thứ nhất là các doanh nghiệp
cạnh tranh lẫn nhau theo hướng hạ giá thành chứ không cạnh tranh theo
hướng nâng cao chất lượng, mẫu mã, bao bì, tiếp thị, thương hiệu, mở
rộng thị trường. Thứ hai xi măng là vật liệu xây dựng rất nặng nhưng lại
đang thiếu một hệ thống logistics kho bãi, cầu cảng và tàu vận chuyển
chuyên dụng. Thứ ba là chúng ta chưa chủ động tìm kiếm thị trường mới,
xuất khẩu xi măng hiện nay phần lớn là do các nhà nhập khẩu, tự khách họ
đến đặt mua, họ ngắt hợp đồng lúc nào mình không chủ động được.
Hơn
nữa vấn đề quan điểm có đẩy mạnh xuất khẩu xi măng như một mặt hàng
xuất khẩu trọng điểm hay chỉ coi đó là một giải pháp tình thế vừa xuất
khẩu một lượng nhất định có kiểm soát, vừa giải quyết vấn đề tiêu thụ
trong nước khi nhu cầu giảm cũng gây băn khoăn cho các doanh nghiệp sản
xuất, xuất khẩu xi măng.
Theo Đức Tuân (Báo Xây Dựng)