Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng nguyên nhân cơ bản là thói quen. Thói
quen từ phía người sản xuất gạch nung, thói quen từ phía người
sử dụng gạch nung, thậm chí thói quen từ các cấp quản lý.
Nhận thức của các nhà đầu tư, tư vấn thiết kế, nhà thầu, người tiêu dùng về
vật liệu xây không nung còn chưa đầy đủ, chưa hiểu biết nhiều về sản phẩm vật liệu xây không nung nói chung và bê tông khí nói riêng.
Các nhà đầu tư
sản xuất vật liệu xây không nung
của chúng ta còn thiếu kinh nghiệm, nguồn vốn còn hạn chế, nên một số
doanh nghiệp chỉ mua các dây chuyền công nghệ với trình độ trung bình,
thiếu đồng bộ; công tác chuyển giao công nghệ, kỹ thuật sản xuất và tiếp
thu công nghệ chưa tốt; đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật chưa được
đào tạo chu đáo; các nhà máy phải vừa sản xuất vừa điều chỉnh, khắc phục
các mặt yếu để ổn định sản xuất.
Đối với
gạch bê tông khí chưng áp
(AAC), là sản phẩm tiên tiến, có nhiều tính năng ưu việt, tuy nhiên do
mới được phát triển tại Việt Nam và có những yêu cầu đặc thù về kỹ
thuật, nên có nhiều hạn chế trong việc sản xuất và sử dụng. Một số nhà
máy do hiểu biết về các tính năng kỹ thuật của sản phẩm chưa đầy đủ nên
công tác bảo quản sản phẩm khi lưu kho và vận chuyển chưa đúng đã ảnh
hưởng đế chất lượng sản phẩm khi đưa vào công trình.
Các nhà máy sản xuất bê tông nhẹ ra đời vào lúc kinh tế nước ta đang gặp
khó khăn, lạm phát cao, đầu tư công bị cắt giảm, thị trường bất động
sản trầm lắng, chi phí tài chính lớn, do đó sản phẩm tiêu thụ chậm, hàng
tồn kho nhiều dẫn đến sản xuất bị ngừng trệ. Tình trạng nay cũng đang
dần được khắc phục. Về nguyên liệu: Hiện nay mới có 2 cơ sở
sản xuất vôi công nghiệp
ở TP. Hải Phòng và tỉnh Thanh Hóa, còn chủ yếu sản xuất theo công nghệ
thủ công, chất lượng vôi chưa đáp ứng yêu cầu cho sản xuất
bê tông khí.
Các cơ sở ở miền Nam còn gặp khó khăn trong việc cung ứng vôi cho sản
xuất do nguồn vôi cung ứng xa (từ miền Bắc vận chuyển vào).
Đối với
gạch xi măng cốt liệu
(block bê tông), nhiều hộ cá thể và doanh nghiệp không quan tâm đến
tiêu chuẩn chất lượng gạch xi măng cốt liệu, đầu tư thiết bị cũng như
sản xuất ra sản phẩm chưa đảm bảo kỹ thuật. Sản phẩm không đạt tiêu
chuẩn nhưng vẫn tiêu thụ ra thị trường, gây tác động tiêu cực trong dư
luận về vật liệu xây không nung nói chung.
Vật liệu xây, trong đó có vật liệu xây không nung là chủng loại phải
tuân thủ theo Quy chuẩn 16:2014/BXD. Nghĩa là ngoài việc sản xuất đạt
tiêu chuẩn, chủ cơ sở sản xuất phải làm thủ tục công bố hợp quy cho sản
phẩm. Như số liệu thống kê đã nêu ở trên, hiện nay đang có hàng ngàn cơ
sở nhỏ lẻ sản xuất gạch xi măng cốt liệu (blok bê tông). Chúng ta không
cấm những cơ sở nhỏ lẻ (công suất dưới 7 triệu viên QTC/ năm), tuy nhiên
chất lượng sản phẩm gạch blok bê tông từ các cơ sở nhỏ lẻ này phần lớn
khó đạt tất cả các tiêu chí quy định trong tiêu chuẩn TCVN 6477:2011,
đặc biệt là chỉ số hút ẩm. Vì vậy việc sản xuất
gạch blok bê tông bằng các dây chuyền nhỏ lẻ không được khuyến khích và đến một thời điểm nhất định chắc chắn phải dừng sản xuất.
Về các chính sách ưu đãi đầu tư, nhiều doanh nghiệp sản xuất vật liệu
xây không nung chưa được hưởng các ưu đãi theo quy định tại Quyết định
567 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày
22/9/2006 của Chính phủ. Nhiều doanh nghiệp đang sản xuất khi mở rộng
đầu tư sản xuất vật liệu xây không nung lại không được hưởng các chính
sách ưu đãi. Bộ Khoa học và Công nghệ chưa có hướng dẫn sử dụng Quỹ
chuyển giao công nghệ như quy định tại Quyết định 567, nên các doanh
nghiệp chưa được hưởng ưu đãi.
Một số địa phương chưa thực sự quan tâm đến Chương trình, hoặc chưa có giải pháp cụ thể hữu hiệu nhằm tăng cường
sử dụng vật liệu xây không nung,
hạn chế sản xuất và sử dụng gạch đất sét nung.
Có địa phương sẵn có nguồn nguyên liệu để sản xuất gạch xi măng cốt
liệu và đã có nhà đầu tư sản xuất, tuy vậy đến thời điểm hiện tại UBND
tỉnh vẫn có văn bản xin lùi thời gian thực hiện Thông tư 09; Có tỉnh khi
chưa xác định rõ nguyên nhân gây ra sự cố nứt tường khi xây bằng vật
liệu xây không nung, UBND tỉnh đã chỉ đạo cho thay đổi
vật liệu xây không nung bằng vật liệu nung.
Quỳnh Trang (TH)