Thông tin chuyên ngành Xi măng Việt Nam

Phát triển VLKN

Phát triển gạch không nung gặp nhiều hạn chế do thói quen người tiêu dùng

04/05/2015 10:40:58 AM

Phát triển gạch không nung được xem là xu hướng tất yếu của ngành Vật liệu xây dựng (VLXD) nhưng hiện nay việc tìm đầu ra cho loại vật liệu này còn gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do thói quen của người tiêu dùng chưa hiểu hết được các ưu điểm cũng như lợi ích của gạch không nung.

Quyết định số 567/QĐ-TTg ngày 28/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020 thì mục tiêu phát triển sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung thay thế gạch đất sét nung đạt tỷ lệ 20 - 25% vào năm 2015, 30 - 40% vào năm 2020.

Theo báo cáo của Bộ Xây dựng cho biết, hiện nay cả nước có 1.500 dây chuyền sản xuất gạch không nung, tổng công suất ước đạt 7 triệu viên/năm và hơn 100 dây chuyền sản xuất gạch xi măng cốt liệu, có công suất 7 - 40 triệu viên/năm, tổng công suất sản xuất gạch xi măng cốt liệu khoảng trên 5,2 tỷ viên/năm. Tổng sản lượng vật liệu xây không nung được sản xuất và sử dụng chiếm 29% tổng sản lượng vật liệu năm 2014, vượt so với dự kiến ban đầu.

TS Trần Văn Huynh, nguyên Chủ tịch Hiệp hội VLXD Việt Nam cho biết, các nhà máy sản xuất hiện nay chỉ khai thác được 50% năng lực trên, tức là khoảng 3 tỷ viên vì hoạt động cầm chừng. Đầu ra của sản phẩm này hiện gặp khó, nhiều năm qua lượng gạch không nung tồn kho đã lên đến hàng tỷ viên.


Thị trường tiêu thụ gạch không nung còn gặp nhiều hạn chế do thói quen sử dụng của người dân.

Hiện nay, thị trường tiêu thụ của gạch không nung còn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là gạch xi măng cốt liệu đang rơi vào tình trạng khó tiêu thụ do mẫu mã đơn điệu, to nặng, giá cả ít có tính cạnh tranh. Những loại vật liệu xây nhẹ tiêu thụ còn kém hơn với mức sản xuất chỉ đạt 20 - 30% công suất.

Lý giải nguyên nhân của thực trạng trên, nhiều chuyên gia cho rằng, những năm gần đây kinh tế suy thoái, thị trường bất động sản đóng băng đã kéo theo ngành VLXD rơi vào tình trạng khó khăn.

Theo khảo sát tại một số cửa hàng VLXD trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, nhiều người được hỏi đều chưa nghe tới loại vật liệu này do đã quen với việc sử dụng gạch nung truyền thống từ lâu nay.

Hơn nữa, gạch nung truyền thống lại có giá rẻ hơn gạch không nung. Hiện nay, 1 viên gạch tuynel (gạch nung truyền thống) loại 6 lỗ, kích thước 195x135x90 có giá khoảng 1.500 - 1.700 đồng/viên.  Trong khi đó, 1 viên gạch block (gạch không nung) có kích thước tương đương có giá từ 1.900 - 2.000 đồng/viên.

Chị Hoa, chủ một của hàng VLXD  ở quận 8, cho biết, khách hàng đến cửa hàng chủ yếu mua loại gạch nung thủ công do thói quen sử dụng từ trước tới nay.

Bên cạnh đó, một nguyên nhân nữa khiến vật liệu xây không nung khó đi vào thị trường, theo PGS.TS Nguyễn Văn Chán, Chủ nhiệm Bộ môn VLXD, Khoa Kỹ thuật xây dựng, Đại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh cho rằng đó là định mức giá thành cho m2 tường xây.

Ở nước ngoài không có định mức kinh tế để khóa chốt cho người làm, mà chỉ có định mức cho chất lượng và hoàn thiện sản phẩm. Vì vậy thời gian qua các doanh nghiệp sản xuất gạch nhẹ chủ yếu là bán cho nước ngoài vì nó không có định mức như ở Việt Nam.

Vừa qua, tại dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 712/2013/UBTVQH13 về việc ban hành biểu mức thuế suất thuế tài nguyên, Bộ Tài chính đã đề xuất điều chỉnh mức thuế đối với đất làm gạch từ 10% lên 15%, nhằm góp phần giảm ô nhiễm môi trường, tiết kiệm và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên, khuyến khích sản xuất và sử dụng gạch không nung.

Nhiều chuyên gia trong ngành Xây dựng cho rằng, cần có chính sách ưu đãi khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất gạch không nung. Bên cạnh đó, tăng cường công tác tuyên truyền ưu điểm, lợi thế của việc sản xuất, sử dụng loại vật liệu thân thiện với môi trường này. Đồng thời, qua đó thấy được những tác động tiêu cực nếu còn sản xuất và sử dụng gạch đất sét nung. Về phía các doanh nghiệp sản xuất gạch không nung cũng cần cải tiến mạnh mẽ về chất lượng, mẫu mã của sản phẩm đáp ứng yêu cầu của người sử dụng.

Quỳnh Trang (TH)

 

Các tin khác:

Hoàn thiện công nghệ sản xuất và sử dụng bê tông khí chưng áp tại Việt Nam ()

Đồng Nai: Vật liệu xanh chưa có chỗ đứng trên thị trường ()

Khó khăn, thách thức trong việc triển khai sản xuất và sử dụng bê tông khí chưng áp tại Việt Nam ()

Sở Xây dựng Đồng Nai tổ chức hướng dẫn sử dụng vật liệu xây không nung ()

Thực trạng sản xuất và sử dụng bê tông khí chưng áp ở Việt Nam ()

Chiến lược phát triển sản xuất gạch không nung ở Việt Nam ()

Phát triển vật liệu xây không nung tồn tại nhiều hạn chế ()

Tình hình sử dụng vật liệu xây không nung trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ()

Chính phủ yêu cầu tăng cường sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung ()

Đà Nẵng: Tình hình sử dụng các loại VLKN còn nhiều vướng mắc ()

TIN MỚI

ĐỌC NHIỀU NHẤT

banner vicem 2023
banner mapei2
bannergiavlxd
faq

Bảng giá :

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee

1.000đ/tấn

1.800

Starcemt

1.000đ/tấn

1.760

Chifon

1.000đ/tấn

1.530

Hoàng Thạch

1.000đ/tấn

1.490

Bút Sơn

1.000đ/tấn

1.450

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee đa dụng

1.000đ/tấn

1.830

Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.670

Vicem Hà Tiên

1.000đ/tấn

1.650

Tây Đô

1.000đ/tấn

1.553

Hà Tiên - Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.440

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Xem bảng giá chi tiết hơn

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.940

Việt Ý

đồng/kg

18.890

Việt Đức

đồng/kg

18.880

Kyoei

đồng/kg

18.880

Việt Nhật

đồng/kg

18.820

Thái Nguyên

đồng/kg

19.390

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

19.040

Việt Ý

đồng/kg

18.990

Việt Đức

đồng/kg

19.180

Kyoei

đồng/kg

19.080

Việt Nhật

đồng/kg

18.920

Thái Nguyên

đồng/kg

19.540

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.890

Việt Ý

đồng/kg

18.840

Việt Đức

đồng/kg

18.830

Kyoei

đồng/kg

18.830

Việt Nhật

đồng/kg

18.770

Thái Nguyên

đồng/kg

19.340

Xem bảng giá chi tiết hơn

Vicem hướng tới công nghệ mới ngành Xi măng

Xem các video khác

Thăm dò ý kiến

Theo bạn, yếu tố nào thúc đẩy tiêu thụ VLXD hiện nay?