Là loại
than trầm tích được hình thành từ các đầm lầy thời tiền sử, nơi thực vật bị chết dưới nước và bị ức chế nên không phân hủy được như ở trong không khí. Khi đó, cả đầm lầy và các trầm tích hữu cơ được tạo thành đều bị bồi tích bao phủ. Dưới tác động của áp suất và bị tiếp xúc với nhiệt độ tăng cao, quá trình các-bon hóa sẽ bắt đầu diễn ra. Đầu tiên hình thành sẽ là
than bùn, tiếp theo là
than nâu - loại than được hình thành dưới áp suất cao sau xấp xỉ từ 2,5 đến 65 triệu năm. Áp lực ở mức thậm chí còn cao hơn dẫn tới sự hình thành than cứng. Trầm tích than cứng tồn tại ngày nay được hình thành cách đây xấp xỉ 360 đến 290 năm. Cuối cùng, than Anthracite sẽ hình thành khi áp suất tiếp tục tăng cao. Mức độ các-bon hóa phụ thuộc vào niên đại và đốâu của trầm tích riêng lẻ.
Bảng 1 minh họa các số liệu đặc trưng chính của các loại than khác nhau. Sự phát triển từ than nâu lên than Anthracite có đặc điểm đặc trưng là mức độ các-bon liên tục gia tăng, và kéo theo đó là tỷ lệ các-bon lớn hơn cũng như hàm lượng than cao hơn bao giờ hết. Ngược lại, hàm lượng chất bốc lại giảm đi liên tục. Xét về mặt hàm lượng năng lượng, than Anthracite là loại than có hoạt tính cao nhất. Tuy nhiên, trầm tích Anthracite rất hiếm và chỉ chiếm chưa tới 1% lượng trầm tích than được biết đến. Đó chính là lý do tại sao than Anthracite hiếm khi được sử dụng làm nhiên liệu cho các lò xi măng ở các nước trên thế giới.
Bảng 1: Các loại than - Các số liệu điển hình
Việt Nam có trữ lượng trầm tích than rất lớn, trong đó than Anthracite là loại than được khai thác chủ yếu tại thời điểm này. Đồng thời, Việt Nam cũng là một trong những nước cung cấp than Anthracite hàng đầu thế giới. Ngành công nghiệp xi măng của Việt Namnhư vậy rõ ràng là đang sử dụng than Anthracite trong nước ở mức độ rất lớn. Tuy nhiên, đây chỉ là trường hợp ngoại lệ ở cấp độ quốc tế.
Nhìn chung, than Anthracite có đặc trưng như sau: nhiệt trị thuần tương đối cao, có thể lên tới 6900 - 7300 kcal/kg. Hàm lượng chất bốc rất thấp, điều này làm than Anthracite khó bắt lửa hơn các loại than khác. Điều này có nghĩa là than Anthracite phải được nghiền thật mịn mới có thể sử dụng trong quá trình sản xuất xi măng, thường độ mịn phải có lượng sót sàng 2-5% trên sàng 0,09mm. Tính khả nghiền của than Anthracite tại Việt Nam dao động từ 35 tới 55oHGI. Hàm lượng ẩm thường thấp hơn 10% và ít gây ảnh hưởng tới thiết kế của các máy nghiền mà vốn phụ thuộc rất lớn vào tính khả nghiền của nguyên liệu. Than Anthracite tại Việt Nam có hàm lượng tro cao (từ 10-20%); do vậy, các máy nghiền than Anthracite thường sẽ có tốc độ mài mòn lớn hơn. Petcoke là loại nhiên liệu rắn giống than Anthracite nhất, với đặc điểm là có tỷ lệ chất bốc cao hơn một chút và hàm lượng tro thấp hơn rất nhiều.
Bảng 2: Than Anthracite tại Việt Nam - Các số liệu điển hình
ximang.vn * (Nguồn: Tạp chí Thông tin KHCN-Vicem)