Thông tin chuyên ngành Xi măng Việt Nam

Diễn đàn Xây dựng

Tín hiệu đáng mừng cho doanh nghiệp thép

10/09/2014 2:37:49 PM

Hầu hết các doanh nghiệp thép của Việt Nam đều coi việc Bộ Công Thương áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm thép nhập khẩu là tín hiệu đáng mừng giúp cho các doanh nghiệp yên tâm hơn trong việc từng bước nắm giữ và phát triển thị trường nội địa cũng như thế giới.

Theo Quyết định số 7896/QĐ-BCT của Bộ Công Thương về áp dụng biện pháp chống bán phá giá, từ ngày 5/10 tới, một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội nhập khẩu vào Việt Nam từ Trung Quốc, Indonesia, Đài Loan và Malaysia có thể bị áp mức thuế từ 3,07 - 37,29%.

Đứng ở góc độ doanh nghiệp, ông Đỗ Duy Thái, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Thương mại và sản xuất Thép Việt cho rằng “Đáng lý ra, hành động này đã phải diễn ra từ trước đây khá lâu”. Thực tế thời gian qua, các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước điêu đứng không những bởi sức cầu yếu dẫn tới lượng hàng tồn kho lớn, mà còn vấp phải sự cạnh tranh gay gắt của thép nhập khẩu.

Điều đáng nói là trong bối cảnh thị trường đang dồn ứ sản phẩm thép, nhưng hàng nhập vẫn tiếp tục được ồ ạt vào Việt Nam. Điển hình như sản phẩm thép Trung Quốc trong 8 tháng qua lên đến 137.500 tấn, cao gấp 5 lần so với lượng thép nhập khẩu từ thị trường này trong năm 2011… Điều này cho thấy nguy cơ gây ảnh hưởng, thiệt hại đối với sản xuất trong nước. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm suy giảm năng lực xuất khẩu của sản phẩm thép ra thị trường một số nước lân cận và thế giới.



Biên độ phá giá sản phẩm thép của một số công ty Trung Quốc từ 4,67% đến gần 7%; thép của Malaysia có mức phá giá trên 10% và điển hình một số công ty thép của Đài Loan có biên độ phá giá lên đến trên 37%... Sản phẩm thép trong nước khó có thể cạnh tranh nổi về giá bán.

Bản thân các doanh nghiệp sản xuất thép rất nhanh nhạy trong việc tìm kiếm thị trường mới, cũng như giảm công suất để tránh tạo áp lực thêm đối với nguồn cung. Cụ thể, nhiều nhà máy hiện nay chỉ còn duy trì tối đa khoảng 50 - 60% công suất, thậm chí có nhà máy chỉ cầm cự ở mức 20%.

Hiện trong nước có 13 doanh nghiệp sản xuất phôi thép lò cao có năng lực lên đến 3,3 triệu tấn, nhưng lượng sản xuất trong năm 2013 chỉ hơn 500.000 tấn. 26 doanh nghiệp sản xuất phôi thép từ lò điện, lò trung tần có năng suất 9 triệu tấn cũng chỉ sản xuất khoảng hơn 5 triệu tấn… Điều này trước mắt ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu và lợi nhuận, đồng thời cũng khiến giá thành sản phẩm khi cung ứng ra thị trường bị đội lên cao, chưa nói đến hiện nay, các DN phải chịu khá nhiều sức ép từ chi phí xăng dầu, điện nước, thuế…

Trong khi một số đối thủ có năng lực sản xuất quy mô lớn như Trung Quốc, Đài Loan… ngoài việc đã hoạt động hết khấu hao nhà máy, doanh nghiệp của họ còn được hưởng rất nhiều chính sách ưu đãi. Không ít sản phẩm thép ngoại nhập trong thời gian qua cũng đã có nhập nhằng mã HS để được hưởng thuế suất ưu đãi bằng 0% khi nhập khẩu vào Việt Nam.

Việc tạo sân chơi bình đẳng để doanh nghiệp trong và ngoài nước cùng phát triển, thay vì lập hàng rào hoặc kiện tụng nhau là hoàn toàn đúng nhưng chưa đủ. Bởi việc áp thuế chống bán phá giá đối với các sản phẩm từ quốc gia khác nhằm bảo vệ hàng hóa sản xuất trong nước là chuyện hết sức bình thường và chính đáng. Bản thân sản phẩm thép của Việt Nam xuất đi nước ngoài cũng đã không ít lần vướng kiện tụng chống bán phá giá.

Cần phải xác định rõ một điều rằng, trước tiên miếng bánh nội địa nên dành cho các doanh nghiệp trong nước, còn đối với những hàng hóa nào doanh nghiệp Việt Nam không đủ năng lực sản xuất thì lúc đó mới nên khuyến khích nhập khẩu. Điều này đang không phù hợp với mặt hàng thép do hiện nay năng lực trong nước đã quá dư thừa thì việc cho phép nhập khẩu một cách thoải mái, ồ ạt thậm chí có sự gian lận thương mại của một số doanh nghiệp nước ngoài nhằm được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi là hoàn toàn không phù hợp và gây bất bình đẳng, cạnh tranh không lành mạnh trong bối cảnh doanh nghiệp trong nước đang gặp nhiều khó khăn hiện nay.

Quỳnh Trang (TH/ TBNH)

 

TIN MỚI

ĐỌC NHIỀU NHẤT

banner vicem 2023
banner mapei2
bannergiavlxd
faq

Bảng giá :

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee

1.000đ/tấn

1.800

Starcemt

1.000đ/tấn

1.760

Chifon

1.000đ/tấn

1.530

Hoàng Thạch

1.000đ/tấn

1.490

Bút Sơn

1.000đ/tấn

1.450

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee đa dụng

1.000đ/tấn

1.830

Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.670

Vicem Hà Tiên

1.000đ/tấn

1.650

Tây Đô

1.000đ/tấn

1.553

Hà Tiên - Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.440

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Xem bảng giá chi tiết hơn

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.940

Việt Ý

đồng/kg

18.890

Việt Đức

đồng/kg

18.880

Kyoei

đồng/kg

18.880

Việt Nhật

đồng/kg

18.820

Thái Nguyên

đồng/kg

19.390

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

19.040

Việt Ý

đồng/kg

18.990

Việt Đức

đồng/kg

19.180

Kyoei

đồng/kg

19.080

Việt Nhật

đồng/kg

18.920

Thái Nguyên

đồng/kg

19.540

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.890

Việt Ý

đồng/kg

18.840

Việt Đức

đồng/kg

18.830

Kyoei

đồng/kg

18.830

Việt Nhật

đồng/kg

18.770

Thái Nguyên

đồng/kg

19.340

Xem bảng giá chi tiết hơn

Vicem hướng tới công nghệ mới ngành Xi măng

Xem các video khác

Thăm dò ý kiến

Theo bạn, yếu tố nào thúc đẩy tiêu thụ VLXD hiện nay?