Bức xạ tia X gồm phổ liên tục hoặc bức xạ trắng đặc trưng cho các vạch tia X của vật liệu anode (K, L...) và các vạch đặc trưng từ các nguyên tố lẫn vào nó. Vì vậy như ta thấy trên hình minh họa, phổ sơ cấp từ ống tia X thường gồm các vạch đặc trưng cường độ mạnh từ vật liệu anode (Chẳng hạn như Rh) nằm trên đường bao rộng của phổ liên tục.
PHỔ LIÊN TỤC (CONTINUUM)
Va chạm của các electron trên anode là không chọn lọc và tạo ra một dải rộng năng lượng chuyển đổi trong đó có phổ liên tục của tia X. Nói cách khác, quá trình hãm các electron tạo ra các vạch bức xạ của phổ liên tục.
Phổ liên tục này có giới hạn bước sóng ngắn chỉ phụ thuộc điện áp đặt vào anode mà không phụ thuộc vào vật liệu anode. Tuy nhiên, cường độ của phổ liên tục lại tăng theo số nguyên tử của vật liệu anode.
Trên hình C.8 minh họa cường độ phổ liên tục ở 3 điện áp khác nhau trên cùng vật liệu làm anode. Cần lưu ý rằng cường độ phổ liên tục tăng theo điện áp và giới hạn bước sóng cực tiểu dịch chuyển về phía bước sóng ngắn hơn (Năng lượng cao hơn) khi chuyển từ 20 tới 50KV.
Người ta có thể biểu diễn cường độ tích phân (Iint) của phổ liên tục bằng một hàm của vật liệu làm anode (Z = số nguyên tử). Cao áp (V) và dòng điện (i) như sau:
Do đó, với một vật liệu làm anode và cao áp đã chọn, cường độ của phổ liên tục tỷ lệ thuận với dòng sợi đốt.
PHỔ ĐẶC TRƯNG VÀ CHỌN VẬT LIỆU ANODE CỦA ỐNG TIA X:
Khi các electron tới có đủ năng lượng để làm bật các electron từ các lớp vỏ K và L của các nguyên tử làm anode thì người ta nhận được các vạch đặc trưng K và L của vật liệu làm anode. Khác với phổ liên tục, hiệu ứng này là chọn lọc và tạo ra các vạch cường độ nhọn của vật liệu anode. Hình C.7 cho thấy các vạch này chồng lên phổ liên tục. Anode được làm từ nguyên tố nặng hơn tạo ra các vạch đặc trưng cường độ lớn hơn. Tuy vậy, trên thực tế hiệu quả của mỗi loại anode lại phụ thuộc vào các điều kiện làm việc (kV và mA).
Iint tỷ lệ thuận với (iZV2)
Do đó, với một vật liệu làm anode và cao áp đã chọn, cường độ của phổ liên tục tỷ lệ thuận với dòng sợi đốt.
PHỔ ĐẶC TRƯNG VÀ CHỌN VẬT LIỆU ANODE CỦA ỐNG TIA X:
Khi các electron tới có đủ năng lượng để làm bật các electron từ các lớp vỏ K và L của các nguyên tử làm anode thì người ta nhận được các vạch đặc trưng K và L của vật liệu làm anode. Khác với phổ liên tục, hiệu ứng này là chọn lọc và tạo ra các vạch cường độ nhọnủa vật liệu anode. Hình C.7 cho thấy các vạch này chồng lên phổ liên tục. Anode được làm từ nguyên tố nặng hơn tạo ra các vạch đặc trưng cường độ lớn hơn. Tuy vậy, trên thực tế hiệu quả của mỗi loại anode lại phụ thuộc vào các điều kiện làm việc (kV và mA).
Anode ống tia X được chọn theo một số yếu tố. Một trong những yếu tố quan trọng nhất có liên quan tới tính hiệu quả của những vạch anode đủ để kích thích một dải rộng các nguyên tố trong mẫu. Để hiểu về hiệu quả, chúng ta phải viện dẫn khái niệm Mép (Ngưỡng) hấp thụ (Absorption edge) của mỗi nguyên tố. Mỗi nguyên tố đều có một mép hấp thụ ứng với mỗi loại vạch nhất định. Ví dụ một nguyên tố như Mo có một mép hấp thụ K và 3 mép hấp thụ L (LI, LII, LIII). Như đã diễn giải ở trên, điều này liên quan đến năng lượng liên kết của electron ở lớp vỏ K hoặc L. V.vậy, khi chọn một nguyên tố anode thích hợp phải tính đến vị trí các vạch K và L của vật liệu anode. Nếu các vạch này có cường độ lớn nằm gần với mép hấp thụ của nguyên tố phân tích trong mẫu chúng gây ảnh hưởng mạnh tới việc kích thích mẫu, ngoài ra còn có sự đóng góp đáng kể của phổ liên tục.
Tóm lại nếu anode làm từ nguyên tố Z tạo ra photon có bước sóng λZ thì khi (Năng lượng photon X)= với < Năng lượng liên kết của electron ở lớp vỏ K trong nguyên tử nào đó trong mẫu sẽ không có hấp thụ (Không có thay đổi đột ngột). Còn khi > Năng lượng liên kết của electron ở lớp vỏ K trong nguyên tử nào đó trong mẫu sẽ xảy ra hiện tượng hấp thụ (Có sự thay đổi đột ngột ở mép hấp thụ).
Mặc dù các ống tia X luôn sẵn có anode được làm từ các nguyên tố khác nhau (Cr, Cu, Mo, Rh, Au và W) nhưng vẫn khó tìm loại vật liệu thích hợp cho toàn bộ các nguyên tố cần phân tích. Hơn nữa phổ liên tục cũng thường xuất hiện cùng với sự kích thích.
Tuy nhiên, có thể tối ưu việc chọn nguyên tố anode bằng cách xét đến các thành phần thông dụng nhất trong bảng tuần hoàn. Hầu hết các phổ kế đều dùng anode ống tia X là Rh và các vạch RhK có thể kích thích các nguyên tố ở dải trung bình trong khi các vạch RhL còn có hiệu lực kích thích các nguyên tố nhẹ (Xem hình C.7). Khi phân tích mẫu có các nguyên tử từ trung bình tới nặng, loại ống tia có anode bằng W được cho là thích hợp.Trong công nghiệp xi măng thường dùng ống tia Xcó anode là Rh và các nguyên tố được phân tích thường là Si, Al, Fe, Ca, Mg, K, S, Cl.... có thể tham khảo các giá trị mép hấp thụ λK (A0) và năng lượng E (keV) theo bảng sau: