Theo đó, tính đến thời điểm 1/7/2012, cả nước có gần 5,2 triệu đơn vị kinh tế, hành chính sự nghiệp, thu hút 22,8 triệu lao động. So với năm 2007, số đơn vị tăng 27,4%, tương đương 1,11 triệu đơn vị; lao động tăng 38,5%, tương đương 6,3 triệu người. Doanh nghiệp là loại hình dẫn đầu về mức tăng số lượng và thu hút lao động. Tính đến 31/12/2011, khối này thu hút được gần 11 triệu lao động. Báo cáo chỉ ra rằng, ở các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo – vốn rất cần có lao động trình độ cao – thì chỉ có 9,7% số lao động có trình độ từ đại học trở lên và có tới 72,2% số lao động chưa qua đào tạo hoặc đã qua đào tạo nhưng không được cấp chứng chỉ. Trong các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể, tỷ lệ lao động chưa được đào tạo cũng khá cao, chiếm tới 67,2% và chiếm tới 61% tổng số lao động chưa được đào tạo của toàn khối các đơn vị kinh tế, hành chính, sự nghiệp. Điều này phần nào lý giải việc hàng hóa do Việt Nam sản xuất chưa có tính cạnh tranh cao trong khu vực và chưa đáp ứng nhu cầu lao động có trình độ cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đáng lưu ý, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhìn chung chưa cao và có xu hướng thấp hơn 5 năm trước đây. Cụ thể, năm 2011, tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh có lãi là 53,9%; thấp hơn tỷ lệ 65,7% của năm 2007. Cũng năm 2011, tỷ lệ doanh nghiệp hòa vốn là 3,2%; bằng năm 2006. Còn lại 42,9% doanh nghiệp bị thua lỗ so với tỷ lệ 31,1% của năm 2006… Hiệu suất sinh lời trên tài sản của toàn khối doanh nghiệp năm 2011 chỉ đạt 2,5% (chưa bằng một nửa so với năm 2006 là 5,5%); trong khi đó hiệu suất sinh lời trên doanh thu cũng có chiều hướng đi xuống, với mức tương ứng là 3,2% và 6,1%.
Chỉ số quay vòng vốn năm 2011 của toàn bộ doanh nghiệp đạt 0,85 vòng, trong đó khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước đạt cao nhất (0,97 vòng), tiếp đến là khu vực FDI (0,85); thấp nhất là khu vực nhà nước (0,81).
Về quy mô doanh nghiệp, tại thời điểm điều tra (31/12/2011), số doanh nghiệp lớn là 7.700 doanh nghiệp, chỉ chiếm tỷ trọng 2,3%; còn lại là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong số doanh nghiệp nhỏ và vừa, có đến 93.400 doanh nghiệp nhỏ (27,6%) và 6.800 doanh nghiệp siêu nhỏ (2%). Đặc biệt, số cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể lại có xu hướng gia tăng mạnh mẽ (ở thời điểm 1/7/2012 tăng 23,4% so với năm 2007), đóng góp khoảng 33% GDP – một tỷ lệ khiêm tốn – nhưng lại có vai trò quan trọng trong tạo ra số lượng lớn công ăn việc làm. Xét theo địa điểm sản xuất kinh doanh, 79% cơ sở cá thể là cửa hàng trên đường phố, ngõ xóm; trong đó kinh doanh tại nhà chiếm đến 69%. Số cơ sở kinh doanh trong các siêu thị, trung tâm thương mại chiếm tỷ trọng rất nhỏ, với 0,38%. Rõ ràng, hệ thống phân phối bán lẻ của nước ta còn rất nhỏ lẻ, manh mún. Các phương thức kinh doanh thương nghiệp văn minh hiện đại chưa thích ứng và chưa phù hợp với thói quen mua bán, có thể do cả điều kiện và khả năng chi trả của người dân.
Theo thành phần kinh tế, trái với lo ngại của của dư luận về hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, khu vực này lại có tỷ lệ số doanh nghiệp kinh doanh có lãi trong năm 2011 đạt cao nhất: 80,8%; hai khu vực còn lại là doanh nghiệp ngoài nhà nước và FDI có tỷ lệ có lãi gần tương đương nhau, lần lượt là 53,7% và 53,8%.
Theo Doanh nhân *