Thông tin chuyên ngành Xi măng Việt Nam

Phát triển VLKN

Gạch đất sét nung và vật liệu xây không nung trong tương lai

28/10/2020 7:21:50 AM

Công nghệ sản xuất và sản phẩm vật liệu xây không nung (VLXKN) đã hình thành và phát triển từ rất lâu, nhưng ở nhiều nước VLXKN bắt đầu phát triển mạnh mẽ vào những năm 60 của thế kỷ trước. Sự phát triển mạnh đến mức, ngày nay, người ta không còn bàn cãi đến việc thay thế gạch đất sét nung nữa. Điều mà các nhà nghiên cứu, các chuyên gia tư vấn quan tâm là nghiên cứu cải tiến công nghệ, cải tiến mẫu mã sản phẩm, nghiên cứu sử dụng nguyên liệu thay thế.

Ở Việt Nam, đến thời điểm này gạch đất sét nung để xây tường đang chiếm khoảng 60%. Công nghệ sản xuất bằng lò đứng thủ công đã bị xóa bỏ hoàn toàn và chắc chắn không thể quay lại. Lò nung tuynel kiểu cũ để sản xuất gạch nung cũng đang giảm dần vì năng suất thấp, chất lượng sản phẩm không cao, nguồn nghuyên liệu sét dẻo đang cạn dần và việc siết chặt quản lý đất đai sẽ dẫn đến thời kỳ khai tử xu hướng sản xuất bằng công nghệ này. Nguồn sét dẻo chất lượng tốt được sử dụng, lựa chọn để sản xuất ngói lợp và các sản phẩm cao cấp khác có giá trị kinh tế hiệu quả hơn. Công nghệ sản xuất bằng lò vòng cải tiến cũng đòi hỏi nguyên liệu đầu vào là sét dẻo. Vì vậy sự tồn tại của công nghệ này cũng không thể lâu dài.


Sự tồn tại của công nghệ sản xuất gạch nung, xem ra chỉ còn lại là lò kích thước lớn, vòm phẳng, đùn gạch mộc bằng áp lực cao. Đây là công nghệ sản xuất chủ yếu dùng nguyên liệu đất bãi ven sông, đất đồi, không dùng sét dẻo. Công nghệ mới này có năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, tự động hóa cao, tiêu tốn ít năng lượng trong nung đốt, sấy, giá thành sản phẩm thấp có khả năng cạnh tranh tốt. Tuy nhiên, trong thời gian mấy năm vận hành công nghệ mới cũng bộc lộ nhược điểm. Đó là các nhà đầu tư chỉ muốn “ăn xổi” đầu tư công nghệ với hệ thống thiết bị không đồng bộ, chất lượng thiết bị, xuất xứ thiết bị không đảm bảo (giá rẻ) nên quá trình vận hành bộc lộ quá nhiều nhược điểm, trục trặc. Đầu tư theo kiểu phong trào, tập trung ở các vùng ven sông, thiếu thị trường tiêu thụ, sản phẩm chủ yếu là gạch đặc, viên gạch kích thước bé.

Chính vì những sai lầm trong đầu tư nên tạo ra sự cạnh tranh không cần thiết, tiêu diệt lẫn nhau, biến lợi thế thành bất lợi, làm ăn kém hiệu quả. Nguồn nguyên liệu sẽ cạn dần, thị trường tiêu thụ khó khăn. Nếu như thời gian qua việc sản xuất sử dụng VLXKN không gặp phải những trục trặc về công nghệ thì có thể nói công nghệ sản xuất gạch bằng đất bãi ven sông cũng khó tồn tại.

Việc sản xuất gạch nung bằng công nghệ mới sử dụng đất đồi là công nghệ gặp nhiều khó khăn. Hầu hết các nhà đầu tư công nghệ này đều thất bại vì không lường hết được chi phí năng lượng, thiết bị cho công nghệ nghiền nguyên liệu. Độ dẻo của đất đồi quá kém cần phải nghiền mịn, đồng nhất, tốn nhiều điện năng, hao mòn thiết bị, vì vậy giá thành sản phẩm cao. Đất đồi, hầu hết là vùng xa nơi tiêu thụ, chi phí vận chuyển gạch cao kéo theo sự sụt giảm sức cạnh tranh. Hiện nay chỉ có một hai nhà đầu tư căn cơ, bài bản mới có thể trụ vững trên thị trường.

Qua thông tin sơ bộ có thể thấy con đường phát triển trở lại của gạch đất sét nung đã ngày càng nhỏ, hẹp. Tình thế đảo ngược của gạch đất sét nung là không thể.

Bài toán đặt ra cho lĩnh vực sản xuất VLXKN là kiên định con đường thay thế dần gạch đất sét nung bằng các giải pháp cụ thể. Nhà nước tiếp tục có cơ chế chính sách phù hợp về quản lý đất đai, đất nông nghiệp, có chế độ thuế phí hợp lý. Doanh nghiệp đầu tư sản xuất cần lựa chọn tối ưu hóa công nghệ để sản phẩm có chất lượng ngày càng cao, thân thiện hơn với môi trường, có các giải pháp vật liệu chống thấm, chống co nứt, đẩy mạnh công nghiệp hóa xây dựng, giảm thời gian thi công, tăng hiệu quả kinh tế, tăng sức cạnh tranh. Mọi cố gắng của nhà nghiên cứu, tư vấn, đầu tư sản xuất vật liệu kích thước lớn, chiều dày mỏng, cách âm, cách nhiệt, tính chống thấm, chống co nứt tốt, bền cơ cao.

Trong số các công nghệ đã đầu tư chưa thực sự thành công có công nghệ sản xuất gạch AAC. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ đối với các dây chuyền đã đầu tư, hiện tạm dừng sản xuất. Chủ đầu tư cần xem xét khôi phục lại sản xuất, trong đó tập trung đánh giá nguyên liệu sử dụng, chuyển mạnh sang sản xuất tấm AAC có lõi thép có kết cấu lắp ghép với nhau, chống co nứt. Cần nghiên cứu các giải pháp chống co tại các vết nối giữa các tấm, xây dựng quy trình kỹ thuật lắp dựng, ghép nối, sơn phủ. Nhà nước cần có chế tài đủ mạnh để biến tấm ALC có lõi thép gia cường trở thành vật liệu chủ lực cho tường xây, đặc biệt là tường ngăn.

Tiếp tục phát triển công nghệ sản xuất tấm tường Acotec và các sản phẩm tương tự. Nghiên cứu phát triển công nghệ đúc trực tiếp tấm tường bê tông cốt thép. Đây là một giải pháp mới hứa hẹn phát triển tại các đô thị Việt Nam. Một cách tổng quát hướng phát triển lâu dài của tường nhà là sản xuất VLXKN tấm lớn.

Công nghệ sản xuất sử dụng VLXKN đã trở thành công nghệ chủ lực trong sản xuất vật liệu xây ở các nước trên thế giới và ở các nước Đông Nam Á. Trong xu hướng phát triển kinh tế tuần hoàn, khi phá dỡ công trình tất cả các phế thải được tái sử dụng. Vì vậy, VLXKN đã trở thành vật liệu xây chủ lực, không ai còn nghi ngờ hoặc nghĩ đến phương án quay trở lại với công nghệ sản xuất đất sét nung. Ở các nước đó vật liệu nung từ đất sét được lựa chọn chủng loại sản phẩm, vật liệu cao cấp, hiệu quả kinh tế cao với các mục đích thẩm mỹ, trang trí.

Sản phẩm VLXKN của Việt Nam sẽ đồng hành cùng sự phát triển của chủng loại này trên thế giới và sẽ là sản phẩm có thị trường lớn nhất trong vật liệu xây.

ximang.vn (TH/ Tạp chí VLXD)

 

Các tin khác:

Gạch không nung bằng đất nện giảm thiểu lượng khí thải carbon ()

Cao Bằng: Phát triển VLXKN góp phần tiết kiệm tài nguyên và giảm thiểu ô nhiễm môi trường ()

Ưu tiên phát triển vật liệu xây dựng thân thiện với môi trường ()

Sản xuất gạch không nung và những lợi ích về môi trường ()

Vật liệu xây không nung góp phần vào phát triển bền vững ()

Hưng Yên: Đẩy mạnh phát triển vật liệu xây không nung ()

Hướng tới sản xuất vật liệu xây dựng đáp ứng phát triển bền vững ()

Phú Thọ: Bảo vệ môi trường từ sản xuất gạch không nung ()

Tuyên Quang: Sản xuất gạch không nung - Hướng đi bền vững ()

Nghệ An: Nhiều nhà máy sản xuất gạch không nung không tìm được đầu ra ()

TIN MỚI

ĐỌC NHIỀU NHẤT

banner vicem 2023
banner mapei2
bannergiavlxd
faq

Bảng giá :

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee

1.000đ/tấn

1.800

Starcemt

1.000đ/tấn

1.760

Chifon

1.000đ/tấn

1.530

Hoàng Thạch

1.000đ/tấn

1.490

Bút Sơn

1.000đ/tấn

1.450

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee đa dụng

1.000đ/tấn

1.830

Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.670

Vicem Hà Tiên

1.000đ/tấn

1.650

Tây Đô

1.000đ/tấn

1.553

Hà Tiên - Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.440

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Xem bảng giá chi tiết hơn

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.940

Việt Ý

đồng/kg

18.890

Việt Đức

đồng/kg

18.880

Kyoei

đồng/kg

18.880

Việt Nhật

đồng/kg

18.820

Thái Nguyên

đồng/kg

19.390

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

19.040

Việt Ý

đồng/kg

18.990

Việt Đức

đồng/kg

19.180

Kyoei

đồng/kg

19.080

Việt Nhật

đồng/kg

18.920

Thái Nguyên

đồng/kg

19.540

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.890

Việt Ý

đồng/kg

18.840

Việt Đức

đồng/kg

18.830

Kyoei

đồng/kg

18.830

Việt Nhật

đồng/kg

18.770

Thái Nguyên

đồng/kg

19.340

Xem bảng giá chi tiết hơn

Vicem hướng tới công nghệ mới ngành Xi măng

Xem các video khác

Thăm dò ý kiến

Theo bạn, yếu tố nào thúc đẩy tiêu thụ VLXD hiện nay?