Thông tin chuyên ngành Xi măng Việt Nam

Chuyên đề xi măng

Phát triển ngành Xi măng đúng hướng

08/09/2014 9:39:28 AM

Thực tế nhìn lại, thời gian trước đây các tỉnh, địa phương trên cả nước đua nhau làm xi măng, có tỉnh tập trung 2, 3 nhà máy xi măng khiến cho việc phát triển ngành công nghiệp này trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Trước tình hình đó, vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã mạnh tay thực hiện loại bỏ các dự án xi măng không hiệu quả ra khỏi Quy hoạch với mục đích phát triển ngành Xi măng đúng hướng.

Việc loại nhiều dự án xi măng ra khỏi quy hoạch được xem là động thái làm lành mạnh hóa ngành công nghiệp xi măng. Ngày 28/8, Thủ tướng Chính phủ đồng ý với đề nghị của Bộ Xây dựng đưa 5 dự án xi măng có quy mô công suất 910.000 tấn xi măng/năm ra khỏi quy hoạch bao gồm: Cao Dương, Chợ Mới, Việt Đức, Long Thọ, Ngân Sơn.


Đồng thời hoãn triển khai 9 dự án xi măng khác gồm: Thanh Sơn, Tân Phú Xuân, Tân Tạo, Yến Mao, Sài Gòn Tân Kỳ, Phú Sơn, Mỹ Đức, Nam Đông, Minh Tâm. Đồng thời bổ sung dự án xi măng Long Sơn (Thanh Hóa) có công suất 2,3 triệu tấn/năm vào Quy hoạch, triển khai đầu tư năm 2014, dự kiến đưa vào vận hành năm 2018.

Trước đó, Chính phủ đã chấp thuận loại bỏ 9 dự án xi măng có công suất dưới 2.500 tấn clinker/ngày ra khỏi Quy hoạch ngành Xi măng bao gồm: dự án xi măng Hà Tiên - Kiên Giang; dự án Trường Sơn - RooLi; dự án Hợp Sơn, Ngọc Hà; dự án Vinafuji Lào Cai, dự án Thanh Trường, dự án Sơn Dương, dự án Quang Minh, dự án Cao Bằng.
 
Cùng với đó giãn tiến độ 7 dự án là dự án Hệ Dưỡng II, dự án Mỹ Đức; dự án Thanh Sơn, dự án Tân Thắng; dự án Đô Lương; dự án Tân Phú Xuân; dự án Nam Đông sang giai đoạn 2015.

 


Trong Quy hoạch mới đây, Chính phủ cũng yêu cầu những dự án xi măng đầu tư mới phải có công suất tối thiểu 2.500 tấn clinker/ngày trở lên.


Ông Nguyễn Quang Cung, Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam, cho biết các dự án bị loại bỏ đều có quy mô sản xuất nhỏ (dưới 2.500 tấn clinker/ngày), không đủ điều kiện để triển khai. Cụ thể, một số dự án do chủ đầu tư không đủ năng lực về tài chính, không thuận lợi về sản xuất, tiêu thụ, nhất là trong tình hình nhà nước không bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn nước ngoài, còn vay vốn trong nước cũng khó khăn vì lãi cao, ngân hàng không mặn mà với các dự án xi măng.

Hơn nữa, theo Bộ Xây dựng, những dự án có công suất dưới 2.500 tấn clinker/ngày đến thời điểm hiện nay đã lạc hậu về chỉ số tiêu hao năng lượng, suất đầu tư lớn, gây ô nhiễm môi trường. Các dự án được đưa vào Quy hoạch trong thời điểm đang thiếu xi măng nên nhà nước kêu gọi đầu tư, cho phép cả những dự án quy mô nhỏ, công suất chỉ 120.000 tấn/năm, điều kiện không thuận lợi và đã giúp sản lượng xi măng được nâng lên, tạo công ăn việc làm. Tuy nhiên, các dự án xi măng quy mô nhỏ chỉ phù hợp thời điểm đó, đến nay không còn hiệu quả.

Theo ông Cung, trong Quy hoạch ngành Xi măng vẫn còn khá nhiều dự án có quy mô nhỏ, hiệu quả thấp, không thể triển khai được. Chỉ cần tiếp tục rà soát thì nhiều dự án xi măng khác cũng có thể khai tử. Quy hoạch hiện nay được xây dựng từ năm 2011 nhưng thực chất là dựa trên cơ sở năm 2005. Có những dự án do lịch sử để lại, doanh nghiệp đã đầu tư nhiều tiền của nên sắp tới khi làm lại quy hoạch cũng phải lưu ý những trường hợp này.

Hiện nay, tổng công suất thiết kế ngành xi măng theo quy hoạch đến năm 2015 là khoảng 80-90 triệu tấn, đến năm 2020 lên tới 130 triệu tấn. Trong khi đó, theo Quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây dựng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 vừa được Thủ tướng phê duyệt hồi cuối tháng 8/2014, nhu cầu xi măng nội địa đến năm 2015 ước tính chỉ khoảng 56 triệu tấn, năm 2020 là 93 triệu tấn. Do đó, trong vài năm trở lại đây, ngành Xi măng đã đối mặt với khủng hoảng thừa khi nguồn cung đã vượt cầu, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được.

Thực tế, cả nước hiện có 71 dây chuyền xi măng lò quay đang hoạt động với tổng công suất 73,45 triệu tấn. Việc đưa thêm 4 nhà máy mới vào hoạt động, dự kiến tổng công suất sẽ đạt 81 triệu tấn vào năm 2015, duy trì đến năm 2017 nhằm bảo đảm nguồn cung. Sản lượng này hoàn toàn có thể đáp ứng nhu cầu nội địa ngay cả khi nền kinh tế có dấu hiệu ấm lên kéo theo cầu tăng. Chưa kể hiện Việt Nam còn xuất khẩu một số lượng xi măng nhất định.

8 tháng đầu năm nay, Việt Nam xuất khẩu được trên 10 triệu tấn xi măng, tình hình sản xuất và tiêu thụ cũng khá tốt do tác động tích cực của phục hồi kinh tế. Với việc tiếp tục xem xét điểu chỉnh các dự án xi măng để bảo đảm phát triển lành mạnh, chúng ta có thể yên tâm với định hướng phát triển ngành Xi măng hiện nay, ông Cung nhận xét.

 

Quỳnh Trang (TH/ NLĐ)

 

Các tin khác:

Xuất khẩu xi măng: Cần hoạch định chiến lược phù hợp ()

Xi măng sản xuất cầm chừng, không có chuyện thiếu cung ()

Cần xem xét đưa ra khỏi quy hoạch một số dự án xi măng không đủ điều kiện đầu tư ()

Nguy cơ khủng hoảng thiếu xi măng ()

Xuất khẩu xi măng - vấn đề được nhìn từ nhiều khía cạnh ()

Nguy cơ tái diễn mất cân đối cung cầu xi măng do thiếu vốn ()

Tồn kho xi măng giảm: Hiệu quả từ các giải pháp kích cầu, giảm cung ()

Năm 2013: Dự kiến nhu cầu tiêu thụ xi măng toàn ngành vào khoảng 62 - 63 triệu tấn ()

Tương lai mới cho Xi măng Cẩm Phả ()

Tăng giá xi măng và nỗi lo mất thị phần xuất khẩu ()

TIN MỚI

ĐỌC NHIỀU NHẤT

banner vicem 2023
banner mapei2
bannergiavlxd
faq

Bảng giá :

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee

1.000đ/tấn

1.800

Starcemt

1.000đ/tấn

1.760

Chifon

1.000đ/tấn

1.530

Hoàng Thạch

1.000đ/tấn

1.490

Bút Sơn

1.000đ/tấn

1.450

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee đa dụng

1.000đ/tấn

1.830

Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.670

Vicem Hà Tiên

1.000đ/tấn

1.650

Tây Đô

1.000đ/tấn

1.553

Hà Tiên - Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.440

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Xem bảng giá chi tiết hơn

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.940

Việt Ý

đồng/kg

18.890

Việt Đức

đồng/kg

18.880

Kyoei

đồng/kg

18.880

Việt Nhật

đồng/kg

18.820

Thái Nguyên

đồng/kg

19.390

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

19.040

Việt Ý

đồng/kg

18.990

Việt Đức

đồng/kg

19.180

Kyoei

đồng/kg

19.080

Việt Nhật

đồng/kg

18.920

Thái Nguyên

đồng/kg

19.540

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.890

Việt Ý

đồng/kg

18.840

Việt Đức

đồng/kg

18.830

Kyoei

đồng/kg

18.830

Việt Nhật

đồng/kg

18.770

Thái Nguyên

đồng/kg

19.340

Xem bảng giá chi tiết hơn

Vicem hướng tới công nghệ mới ngành Xi măng

Xem các video khác

Thăm dò ý kiến

Theo bạn, yếu tố nào thúc đẩy tiêu thụ VLXD hiện nay?