Theo Quy hoạch phát triển công nghiệp vôi đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 tại Quyết định số 507/QĐ-BXD ngày 27/4/2015 của Bộ Xây dựng quy định rõ, đến năm 2016 loại bỏ ít nhất 50% số lò thủ công gián đoạn trên cả nước; đến năm 2020, xóa bỏ hoàn toàn các lò thủ công gián đoạn và thủ công liên hoàn trên phạm vi toàn quốc. Ngày 15/7/2016, Bộ Xây dựng ban hành Công văn số 1452/BXD-GĐ về tăng cường công tác quản lý đối với các lò nung thủ công
sản xuất vật liệu xây dựng trên toàn quốc nhằm hạn chế tối đa các sự cố đáng tiếc như sập lò, tai nạn lao động...
Để nâng cao hiệu lực công tác quản lý Nhà nước, thực hiện chỉ đạo của Bộ Xây dựng, ngăn ngừa những sự cố có thể gây hậu quả đáng tiếc, ngày 22/3/2016 UBND tỉnh ban hành kế hoạch số 1460/KH-UBND "về việc chấm dứt hoạt động các cơ sở sản xuất vôi bằng lò nung thủ công trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh". Mục tiêu đề ra: lộ trình giảm dần và đến hết năm 2018 chấm dứt hoàn toàn việc
sản xuất vôi bằng các lò nung thủ công trên địa bàn tỉnh, đảm bảo kiểm soát an toàn vệ sinh lao động, giảm thiểu các tác động ô nhiễm môi trường.
Trên cơ sở đó, các địa phương đã xây dựng kế hoạch chấm dứt hoạt động các cơ sở
sản xuất vôi thủ công. Đến thời điểm này trên địa bàn tỉnh vẫn còn 64 cơ sở sản xuất tập trung ở 4 địa phương: Hạ Long, Đông Triều, Quảng Yên và Uông Bí. Trong đó có 6 cơ sở đã dừng hoạt động sản xuất (Đông Triều: 2 cơ sở; Uông Bí: 4 cơ sở). Các lò sản xuất vôi đã được đầu tư là lò đứng thủ công liên hoàn, công suất thiết kế mỗi lò khoảng 3.000 tấn/lò/năm. Tổng công suất thiết kế ước đạt trên 250.000 tấn/năm. Phần lớn các lò vôi thủ công do các hộ gia đình tự góp vốn đầu tư xây dựng, quản lý, khai thác, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Do không có dự án đầu tư, không có thiết kế, không được phép xây dựng, không có hồ sơ đất đai theo quy định, không quản lý được nguồn mỏ đá cấp cho các lò vôi nên gây khó khăn trong công tác quản lý nhà nước tại địa phương. Bên cạnh đó, khí thải từ các lò làm ảnh hưởng đến môi trường sống và sản xuất của người dân trong khu vực. Quy trình sản xuất thủ công, bảo hộ lao động còn thiếu, dễ xảy ra tai nạn trong quá trình sản xuất.
Phát biểu tại cuộc họp, đồng chí Vũ Văn Diện, Phó Chủ tịch UBND tỉnh ghi nhận những cố gắng của các địa phương trong việc xây dựng kế hoạch và đưa ra lộ trình chấm dứt hoạt động của các cơ sở
sản xuất vôi bằng lò nung thủ công. Qua 1 năm thực hiện, các địa phương đang trong giai đoạn vận động các cơ sở sản xuất tiến tới chấm dứt hoạt động vào năm 2018 theo lộ trình đề ra. Để đảm bảo đúng lộ trình đồng chí cũng yêu cầu các địa phương cần tập trung rà soát lại hoạt động các cơ sở sản xuất vôi, trong đó đánh giá rõ quá trình hình thành từ sản xuất nhỏ đến sản xuất vừa và nhỏ cho đến hiện trạng hiện nay.
Về tình hình quản lý quỹ đất sử dụng của các lò vôi, các địa phương phải đánh giá rõ diện tích đất và quá trình hình thành quỹ đất đó, nắm chắc quy mô xây dựng, công nghệ, làm rõ thực trạng lao động gồm lao động thường xuyên, lao động thời vụ... Làm rõ việc chấp hành các quy định về thuế, phí cũng như các quy định về môi trường, đất đai của từng cơ sở; xác định nguyên liệu đầu vào, đầu ra nơi tiêu thụ cũng như giá thành sản phẩm. Các địa phương cần có biên bản xác định cơ sở pháp lý cũng như nguồn gốc hình thành và những vi phạm của các cơ sở đó và phải hoàn thành dứt điểm trong tháng 3/2017. Cần xác định cơ sở nào phù hợp, không phù hợp với quy hoạch, từ đó đề xuất cơ sở đủ điều kiện chuyển sang lĩnh vực sản xuất khác.
Liên quan đến việc chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động tại các lò vôi thủ công, đồng chí nhấn mạnh, trên cơ sở lao động đang làm việc thường xuyên, chính quyền cần rà soát để có phương án phù hợp. Đồng thời, đề xuất các giải pháp hỗ trợ khác đối với các cơ sở không cho phép hoạt động nữa; tăng cường quản lý nhà nước về kiểm tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các sai phạm về môi trường, đất đai, xây dựng, an toàn giao thông trong vận chuyển đá vôi. Đối với chính sách hỗ trợ, đồng chí yêu cầu các địa phương chủ động xây dựng chính sách để báo cáo xin chủ trương của tỉnh trong vận dụng và địa phương tự cân đối nguồn ngân sách triển khai thực hiện.