Theo con số thống kê cho thấy, sản lượng thép xây dựng hiện tại của tỉnh Thái Nguyên theo công suất thiết kế đang ở mức trên 1 triệu tấn/năm. Bao gồm: Công ty CP Gang thép Thái Nguyên, Công ty liên doanh Thép Việt - Sing, Công ty CP Cán thép Thái Trung, Công ty CP cán thép Thái Nguyên, Nhà máy Thép Trường Sơn... Ngoài các cơ sở cán thép, trên địa bàn tỉnh còn có các đơn vị sản xuất gang luyện thép, phôi thép.
Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 của Công ty CP Gang thép Thái Nguyên được phê duyệt với tổng mức đầu tư lên tới 3.843 tỷ đồng, hệ thống các dây chuyền sản xuất khép kín, công nghệ hiện đại, tiên tiến, đã đánh giá rất cao. Không chỉ nhà quản lý mà ngay cả các nhà sản xuất, các đối tác và người tiêu dùng đều kỳ vọng vào dự án này.
Tuy nhiên, sau 7 năm tiến hành khởi công, đến nay dự án trên vẫn chưa được hoàn thiện, nhiều hạng mục bị đình trệ, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất, kinh doanh của Công ty. Gần đây, điều đáng mừng là dự án này được khởi động mạnh mẽ trở lại với việc Chính phủ chỉ đạo cấp vốn 1.000 tỷ đồng từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp. Khi dự án tầm cỡ này hoàn thành và đi vào hoạt động sẽ giúp cho ngành thép của tỉnh vững mạnh hơn, góp phần cùng cả nước điều tiết và bình ổn thị trường thép.
Theo quy hoạch của tỉnh, ngoài Công ty CP Gang thép Thái Nguyên, giai đoạn này Thái Nguyên đầu tư từ 5 đến 7 cơ sở chế biến sâu, loại lò cao có dung tích từ 22 đến 75m3. Và thực tế tỉnh đã cấp phép đầu tư cho 7 đơn vị với 8 cơ sở chế biến sâu với tổng công suất (cả gang và hợp kim sắt) là 275 nghìn tấn/năm.
Trong đó, Công ty CP Luyện kim đen Thái Nguyên luyện gang lò cao công suất thiết kế 120 nghìn tấn/năm; Công ty CP Gang Hoa Trung, luyện gang công suất 25 nghìn tấn/năm; Công ty CP Kim khí Gia Sàng luyện gang công suất 25 nghìn tấn/năm; Doanh nghiệp tư nhân Anh Thắng luyện gang tại hai nhà máy với tổng công suất 65 nghìn tấn/năm; Công ty TNHH Xây dựng và Phát triển nông thôn miền núi thu hồi gang từ lò hồ quang công suất 20 nghìn tấn/năm; HTX Công nghiệp và Vận tải Chiến Công luyện Feromangan và Silicomangan công suất 30 nghìn tấn/năm; Công ty TNHH Đúc Vạn Thông công suất 45 nghìn tấn hợp kim sắt và 5 nghìn tấn gang/năm.
Xét về cân đối cung, cầu thì việc quy hoạch trên là hoàn toàn hợp lý bởi hiện nay, ngành sản xuất thép của Thái Nguyên vẫn phải chủ yếu nhập phôi từ nước ngoài, trong khi nguồn nguyên liệu từ quặng sắt tại địa phương lại khá dồi dào.
Như vậy, so với tổng thể quy hoạch phát triển ngành thép cả nước, việc ra đời các dự án luyện thép của tỉnh Thái Nguyên hiện nay là phù hợp. Về lâu dài, cần thiết phải ưu tiên phát triển những dự án luyện thép quy mô, hạn chế những dự án nhỏ lẻ, manh mún.
Khánh Linh (TH/ Báo Thái Nguyên)