Thông tin chuyên ngành Xi măng Việt Nam

Phát triển VLKN

Khó khăn phát triển vật liệu không nung

03/05/2022 7:39:47 AM

Theo Chương trình phát triển vật liệu không nung tại Việt Nam đến năm 2030 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, việc sản xuất và sử dụng vật liệu không nung thay thế một phần gạch đất sét nung sẽ đạt tỷ lệ 35 - 40% vào năm 2025; 40 - 45% vào năm 2030 trong tổng số vật liệu xây. Đây là mục tiêu không dễ đạt được khi hiện tại vật liệu không nung vẫn còn nhiều khó khăn cả ở khâu sản xuất và tiêu thụ.

Theo PGS-TS. Lê Trung Thành, Viện trưởng Viện Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng), sau hơn 10 năm thực hiện Quyết định số 567/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, việc đầu tư, sản xuất và sử dụng vật liệu không nung ở nước ta đã có sự chuyển biến tích cực. Thị trường xuất hiện nhiều sản phẩm đa dạng như: gạch bê tông xi măng cốt liệu; gạch bê tông khí chưng áp, không chưng áp; gạch bê tông bọt; tấm bê tông rỗng đùn ép, tấm tường bê tông khí chưng áp...


Gạch không nung được sử dụng tại một công trình xây  dựng.

Tuy nhiên, số lượng các cơ sở sản xuất vật liệu không nung lại đang có dấu hiệu giảm. Hiện cả nước có khoảng 1.600 cơ sở sản xuất vật liệu không nung đang hoạt động, tổng công suất thiết kế khoảng 10,2 tỷ viên/năm; trong khi năm 2019, cả nước đã có khoảng hơn 2.000 cơ sở, với tổng công suất thiết kế khoảng 12,6 tỷ viên. Số lượng cơ sở sản xuất lại đang có nguy cơ bị thu hẹp tiếp nếu không có cơ chế, chính sách thúc đẩy mạnh mẽ hơn việc sản xuất và tiêu thụ vật liệu không nung, PGS-TS. Lê Trung Thành băn khoăn.

Theo phản ánh từ các doanh nghiệp sản xuất vật liệu không nung, khâu tiêu thụ loại vật liệu này gặp nhiều khó khăn, lượng hàng tồn tương đối lớn, các nhà máy chỉ dám chạy dưới 50% công suất. Đại diện Sở Xây dựng tỉnh Thanh Hóa cho biết, trên địa bàn tỉnh có 49 cơ sở sản xuất gạch không nung với công suất thiết kế hơn 1 triệu viên/năm, tuy nhiên, sản lượng chỉ đạt từ 25% đến dưới 40% công suất thiết kế. Đặc biệt, sản lượng sản xuất và tiêu thụ loại vật liệu này trong 2 năm trở lại đây đã giảm liên tiếp 5 - 6%/năm. Còn theo đại diện Sở Xây dựng tỉnh Hải Dương, 3/5 doanh nghiệp sản xuất vật liệu không nung trên địa bàn đã phải dừng sản xuất do khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. Tình hình cũng tương tự ở nhiều địa phương như Khánh Hòa, Bình Phước, Cao Bằng, Thái Nguyên… 

Có nhiều nguyên nhân khiến vật liệu không nung có xu hướng sụt giảm sản lượng. Theo các chuyên gia, nguyên nhân đầu tiên là đa số người dân vẫn chưa có thói quen sử dụng vật liệu không nung. Sản phẩm này lại không có tính cạnh tranh kinh tế so với các loại vật liệu nung. Mặt khác, chất lượng sản phẩm chưa được đảm bảo do ở nhiều địa phương, các cơ sở sản xuất còn nhỏ lẻ, các cơ quan quản lý khó kiểm soát. Trên thực tế, có không ít cơ sở sản xuất quy mô nhỏ và vừa, có trình độ công nghệ chỉ đạt mức trung bình, cho ra sản phẩm chất lượng thấp, dẫn đến tình trạng gạch bê tông chưa đủ ngày tuổi đã đưa vào công trình, gây hiện tượng co ngót, rạn nứt. 

Một khó khăn rất lớn nữa khiến vật liệu không nung chưa phát triển được, đó là hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức kinh tế, kỹ thuật liên quan đến vật liệu không nung vẫn chưa hoàn chỉnh. Đại diện Hiệp hội Vật liệu xây dựng Việt Nam cho rằng, hiện các tiêu chuẩn sản phẩm, quy phạm xây dựng, kết cấu kiến trúc, đơn giá xây dựng của các loại vật liệu không nung chưa được ban hành đồng bộ, đầy đủ từ các cơ quan quản lý. Do vậy, kiến trúc sư và kỹ sư thiết kế xây dựng gặp khó khăn trong việc chỉ định thiết kế, dự toán khối lượng vật liệu cho công trình. Đó là chưa kể, nhiều loại vật liệu mới chưa được ban hành hướng dẫn thi công và nghiệm thu đồng bộ, gây lúng túng, bất tiện cho các đơn vị thi công.

Theo ông Phạm Văn Bắc, Vụ trưởng Vụ Vật liệu (Bộ Xây dựng), thời gian qua, Bộ Xây dựng đã chủ trì trình Chính phủ ban hành các văn bản thúc đẩy phát triển các loại vật liệu xây dựng mới như: Nghị định 09/NĐ-CP về quản lý vật liệu xây dựng; Chỉ thị 08/CT-TTg về đẩy mạnh sử dụng tro, xỉ, thạch cao…  Đặc biệt gần đây, Bộ Xây dựng đã triển khai nhiều hoạt động nghiên cứu, sản xuất ra các loại vật liệu mới theo hướng đẩy mạnh việc tận dụng phế thải công nghiệp, góp phần hạ giá thành sản phẩm. Các sản phẩm đáng chú ý là gạch sản xuất từ bùn đỏ, tro bay nhiệt điện; bê tông từ phế thải của các nhà máy sản xuất phân bón… Bước đầu, các sản phẩm này cho thấy có hiệu quả kinh tế kỹ thuật và hứa hẹn có thể ứng dụng rộng rãi. 

Ông Phạm Văn Bắc cũng cho biết, trong thời gian tới, Bộ Xây dựng sẽ hoàn thiện tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức kinh tế, kỹ thuật liên quan đến vật liệu không nung; tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các tiêu chuẩn, quy chuẩn về chất lượng sản phẩm vật liệu không nung theo hướng nâng cao yêu cầu chất lượng. Đồng thời, Bộ Xây dựng sẽ rà soát, xây dựng và ban hành hướng dẫn thi công, nghiệm thu vật liệu không nung; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra chất lượng các sản phẩm vật liệu không nung tại các cơ sở sản xuất, các công trình sử dụng vật liệu không nung trên cả nước. Bộ Xây dựng cũng khuyến nghị các địa phương tăng cường kiểm soát tỷ lệ sử dụng vật liệu không nung trong quá trình thẩm định, phê duyệt các dự án đầu tư xây dựng theo thẩm quyền, thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư sản xuất vật liệu không nung trên địa bàn. Trong năm 2023, Bộ Xây dựng dự kiến tiếp tục tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình quốc gia tăng cường sử dụng các loại chất thải làm nguyên liệu, nhiên liệu trong sản xuất vật liệu xây dựng và trong công trình xây dựng. 

Từ phía các doanh nghiệp sản xuất, nhiều ý kiến cho rằng, để phát triển vật liệu không nung, các địa phương cần tiếp tục thực thi triệt để chủ trương của Chính phủ về giảm dần sử dụng gạch đất sét nung truyền thống, có các chính sách đánh thuế tài nguyên, thuế môi trường vào loại vật liệu này. Đồng thời, các cơ quan quản lý cần có chính sách phù hợp, có ưu đãi trong sản xuất, khai thác và sử dụng vật liệu không nung. Đặc biệt, các doanh nghiệp cần được hỗ trợ về vốn để đảm bảo năng lực sản xuất ra các sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, có thể tham gia vào các công trình, dự án xây dựng lớn. 

Một số ý kiến cũng cho rằng, Quyết định số 2171/QĐ-TTg của Thủ tướng phê duyệt Chương trình phát triển vật liệu không nung tại Việt Nam đến 2030 sẽ là động lực mạnh mẽ để đẩy mạnh tiêu thụ vật liệu không nung trong thời gian tới. Tại quyết định này, Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra những yêu cầu cụ thể về tỷ lệ sử dụng vật liệu không nung trong các công trình, dự án tại các địa phương theo từng giai đoạn. Tuy nhiên, để thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Chính phủ, các cơ quan quản lý cần có chế tài đủ mạnh đối với việc sử dụng vật liệu không nung không đáp ứng về tỷ lệ cũng như chất lượng trong các công trình xây dựng.

ximang.vn (TH/ SGGP)

 

Các tin khác:

Hải Phòng: Nhiều công trình xây dựng bằng vốn đầu tư công sử dụng vật liệu không nung ()

Sản xuất gạch không nung hướng đến sản xuất xanh trong ngành vật liệu xây dựng ()

Khánh Hòa: Gạch không nung từng bước thay thế gạch đất sét nung ()

Vật liệu xanh đang dần khởi sắc ()

Cần thay đổi những quy định chung về vật liệu xây không nung để phù hợp với thực tiễn ()

Vật liệu xây không nung loay hoay tìm chỗ đứng trên thị trường ()

Hiệu quả sử dụng gạch bê tông trong các công trình xây dựng ()

Cần hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển vật liệu không nung ()

Tái chế tro xỉ nhiệt điện để sản xuất gạch không nung ()

Cao Bằng: Đẩy mạnh sản xuất và sử dụng vật liệu xây dựng không nung ()

TIN MỚI

ĐỌC NHIỀU NHẤT

banner vicem 2023
banner mapei2
bannergiavlxd
faq

Bảng giá :

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee

1.000đ/tấn

1.800

Starcemt

1.000đ/tấn

1.760

Chifon

1.000đ/tấn

1.530

Hoàng Thạch

1.000đ/tấn

1.490

Bút Sơn

1.000đ/tấn

1.450

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee đa dụng

1.000đ/tấn

1.830

Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.670

Vicem Hà Tiên

1.000đ/tấn

1.650

Tây Đô

1.000đ/tấn

1.553

Hà Tiên - Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.440

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Xem bảng giá chi tiết hơn

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.940

Việt Ý

đồng/kg

18.890

Việt Đức

đồng/kg

18.880

Kyoei

đồng/kg

18.880

Việt Nhật

đồng/kg

18.820

Thái Nguyên

đồng/kg

19.390

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

19.040

Việt Ý

đồng/kg

18.990

Việt Đức

đồng/kg

19.180

Kyoei

đồng/kg

19.080

Việt Nhật

đồng/kg

18.920

Thái Nguyên

đồng/kg

19.540

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.890

Việt Ý

đồng/kg

18.840

Việt Đức

đồng/kg

18.830

Kyoei

đồng/kg

18.830

Việt Nhật

đồng/kg

18.770

Thái Nguyên

đồng/kg

19.340

Xem bảng giá chi tiết hơn

Vicem hướng tới công nghệ mới ngành Xi măng

Xem các video khác

Thăm dò ý kiến

Theo bạn, yếu tố nào thúc đẩy tiêu thụ VLXD hiện nay?