Thông tin chuyên ngành Xi măng Việt Nam

Năng suất xanh

Chất thải xây dựng cần có quy định tiêu chuẩn kỹ thuật sản phẩm tái chế

05/08/2021 10:06:18 AM

Cũng như nhiều thành phố khác ở Việt Nam, Hà Nội luôn có những công trình được thi công với nhiều quy mô khác nhau tại nhiều ngóc ngách trong thành phố, dẫn đến phát sinh hàng ngàn tấn phế thải xây dựng mỗi ngày. Tái chế chất thải xây dựng và đem lại cho nó một chỗ đứng trên thị trường vật liệu xây dựng sẽ là một trong những giải pháp chủ chốt để xử lý bền vững chất thải xây dựng ở Việt Nam.

Đây là vấn đề mà ThS. Hoàng Ngọc Hân ở Viện Nghiên cứu môi trường quốc gia (Nhật Bản) muốn tìm hiểu. Thông qua dự án “Thiết lập hệ thống quản lý phế thải xây dựng hiệu quả nhằm kiểm soát ô nhiễm môi trường và tăng cường khả năng chế tạo các loại vật liệu mới từ phế thải xây dựng tái chế ở Việt Nam” (2018 - 2023) thuộc Chương trình hợp tác nghiên cứu KH&CN phát triển bền vững (SATREPS) giữa Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Tổ chức KH&CN Nhật Bản (JST) với cơ quan đầu mối tại Việt Nam là trường Đại học Xây dựng, chị và đồng nghiệp đã có cơ hội khám phá bức tranh toàn cảnh về chất thải xây dựng ở Hà Nội - yếu tố quan trọng để xây dựng các chính sách xử lý hiệu quả.


Tái chế chất thải xây dựng đem lại hiệu quả cao cho môi trường.

Khảo sát thực tế 15 công trình xây dựng và công trình phá dỡ trên địa bàn thành phố, bao gồm cả quy mô nhỏ và quy mô lớn.Những dữ liệu chi tiết đầu tiên về chất thải xây dựng ở Hà Nội đã hé lộ: các loại chất thải xây dựng phổ biến nhất là đất, bê tông, gạch, kim loại, giấy bìa, nhựa, gỗ,... Trong đó, loại chất thải phát sinh nhiều nhất từ các công trình xây dựng là đất đào, còn đối với công trình phá dỡ là bê tông và gạch. Tỉ lệ này cũng phù hợp với đặc điểm nhà ở khu vực miền Bắc - chủ yếu là nhà kiên cố (chiếm 92% vào năm 2018, cao hơn hẳn khu vực miền Trung có 67% và miền Nam là 21%).

Tương tự một số nghiên cứu khác trên thế giới, tỉ lệ phát sinh chất thải ở công trình xây dựng và công trình phá dỡ ở Hà Nội có xu hướng ngược nhau: công trình phá dỡ quy mô nhỏ tạo ra lượng chất thải trên một đơn vị diện tích phá dỡ cao hơn công trình quy mô lớn (quy mô nhỏ là 610 kg/m2, quy mô lớn là 318 kg/m2), trong khi công trình xây dựng càng lớn thì lượng chất thải tạo ra càng lớn (quy mô nhỏ là 79,3 kg/m2; quy mô lớn là 1030 kg/m2). Kết quả này càng khiến người ta càng lo ngại bởi phần lớn các công trình phá dỡ ở Hà Nội hiện nay là những công trình quy mô nhỏ, thường bị phá dỡ để xây dựng các công trình lớn hơn.

Theo thống kê của nhóm nghiên cứu, tổng tỉ lệ tái chế của tất cả các loại chất thải xây dựng, bao gồm sắt, nhựa để bán phế liệu, đất, gạch, bê tông dùng để đổ san nền,… chỉ khoảng dưới 10% nhưng các loại chất thải chiếm tỉ lệ lớn nhất như đất, bê tông và gạch lại có tỉ lệ tái chế thấp nhất. Như vậy, khoảng 90% chất thải xây dựng tại các điểm khảo sát ở Hà Nội không được tái sử dụng, tỉ lệ này thậm chí có thể đáng báo động hơn ở vùng nông thôn hoặc những tỉnh thành quản lý chất thải xây dựng ít chặt chẽ hơn, nhóm nghiên cứu nhận xét.

Việc đổ bỏ các loại chất thải xây dựng, dù đúng quy định, không chỉ gây áp lực lên các bãi chôn lấp vốn đã quá tải mà còn lãng phí không ít nguồn tài nguyên đang ngày càng cạn kiệt. Đơn cử, trong nghiên cứu này, trong các chất thải xây dựng chính, đất là loại ít được tái sử dụng nhất. Nhưng trong thực tế gần đây, hàng loạt dự án như cao tốc Phan Thiết - Dầu Giây (từ Bình Thuận đến Đồng Nai) hay cao tốc Cam Lộ - La Sơn đoạn qua Thừa Thiên Huế đang có nguy cơ chậm tiến độ vì thiếu đất san lấp.

Việt Nam đã bắt đầu nghĩ đến những giải pháp tái chế và đề ra mục tiêu đến năm 2025, 60% chất thải rắn xây dựng phát sinh từ các đô thị của Việt Nam sẽ được tái chế, theo Chiến lược về quản lý chất thải rắn quốc gia năm 2018. Thị trường dành cho sản phẩm tái chế từ chất thải xây dựng có vẻ rất hứa hẹn bởi bên cạnh nguồn cung dồi dào là lượng chất thải phát sinh lớn, nhu cầu về cốt liệu bê tông tái chế ở Hà Nội hiện nay thậm chí còn cao hơn nguồn bê tông thải.

Tuy nhiên không dễ để tạo dựng một thị trường chưa có tiền lệ này. Một trong những nguyên nhân chính là rác thải xây dựng ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là rác thải lẫn, không được phân loại. Cũng như các giải pháp xử lý chất thải nói chung, mỗi công nghệ tái chế chất thải xây dựng sẽ phù hợp với từng loại chất thải khác nhau. Nếu tỉ lệ chất thải lẫn lộn cao như hiện nay - khoảng hơn 80% thì sẽ rất khó áp dụng các biện pháp tái chế, theo ThS. Hoàng Ngọc Hân.

Làm thế nào để phân loại chất thải xây dựng là một vấn đề không đơn giản vì khác với rác thải sinh hoạt có thể phân loại tại nguồn, chất thải xây dựng thường phát sinh với tỉ lệ rất lớn, gồm đất, bê tông, gạch,... Tuy nhiên, thông qua một một nghiên cứu khác của Viện Nghiên cứu môi trường quốc gia Nhật Bản, họ dự kiến sẽ đề xuất áp dụng phương pháp phá dỡ chọn lọc để giảm thiểu lượng rác trộn. Với hình thức phá dỡ này, đơn vị phá dỡ sẽ phá dỡ theo từng bước, mỗi phần rác thải tạo ra sẽ được phân loại ngay tại nguồn, giải quyết vấn đề chất lượng đầu vào của nhà máy tái chế.

Một yếu tố quan trọng để phát triển thị trường tái chế là các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cho sản phẩm tái chế từ chất thải xây dựng. Dù đã được nhắc đến từ lâu song hiện nay, Việt Nam chưa có bất kì tiêu chuẩn hay quy chuẩn nào về các sản phẩm này. Đây cũng là một trong những lo ngại mà các công ty trong lĩnh vực xây dựng bày tỏ trong quá trình thực hiện dự án.

Việc giải quyết những vấn đề trên có lẽ không chỉ trong “ngày một ngày hai”, bản thân các quốc gia phát triển như Nhật Bản cũng từng trải qua thời kì đổ rác thải xây dựng bừa bãi. Tuy nhiên, Việt Nam có thể đẩy nhanh quá trình này nếu có sự phối hợp của các bên - nhà quản lý, nhà nghiên cứu, doanh nghiệp và người dân: từ việc lựa chọn công nghệ xử lý như thế nào, có được đón nhận hay không, nếu công nghệ đấy không khả thi với nhà đầu tư thì chính phủ làm như thế nào, nên có mô hình kinh doanh như thế nào để hỗ trợ nhà đầu tư cũng như khuyến khích hoạt động tái chế. Đấy sẽ là nỗ lực chung của rất nhiều bên thì mới thực hiện được, ThS. Hoàng Ngọc Hân nhận định.

ximang.vn (TH/ KHPT)

 

Các tin khác:

Xi măng và Khoáng sản Yên Bái tập trung các giải pháp môi trường, nâng cao hiệu quả sản xuất ()

Kỳ vọng xi măng sẽ ngành sản xuất thân thiện với môi trường ()

Tham vọng sản xuất xi măng không phát thải khí carbon ()

Xi măng Đồng Lâm tập trung đầu tư cho sản xuất xanh, bền vững ()

Phát triển bền vững là nhiệm vụ hàng đầu của Tập đoàn Xi măng The Vissai ()

FLSmidth với tham vọng phát triển bền vững ngành công nghiệp xi măng Việt Nam ()

Tro bay - Vật liệu xây dựng xanh thân thiện với môi trường ()

Xi măng Xuân Thành chú trọng sản xuất đi đôi với bảo vệ môi trường ()

Xi măng Trung Sơn tập trung cải tiến công nghệ hướng tới phát triển bền vững ()

Vật liệu xanh cho công trình xanh ()

TIN MỚI

ĐỌC NHIỀU NHẤT

banner vicem 2023
banner mapei2
bannergiavlxd
faq

Bảng giá :

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee

1.000đ/tấn

1.800

Starcemt

1.000đ/tấn

1.760

Chifon

1.000đ/tấn

1.530

Hoàng Thạch

1.000đ/tấn

1.490

Bút Sơn

1.000đ/tấn

1.450

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee đa dụng

1.000đ/tấn

1.830

Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.670

Vicem Hà Tiên

1.000đ/tấn

1.650

Tây Đô

1.000đ/tấn

1.553

Hà Tiên - Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.440

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Xem bảng giá chi tiết hơn

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.940

Việt Ý

đồng/kg

18.890

Việt Đức

đồng/kg

18.880

Kyoei

đồng/kg

18.880

Việt Nhật

đồng/kg

18.820

Thái Nguyên

đồng/kg

19.390

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

19.040

Việt Ý

đồng/kg

18.990

Việt Đức

đồng/kg

19.180

Kyoei

đồng/kg

19.080

Việt Nhật

đồng/kg

18.920

Thái Nguyên

đồng/kg

19.540

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.890

Việt Ý

đồng/kg

18.840

Việt Đức

đồng/kg

18.830

Kyoei

đồng/kg

18.830

Việt Nhật

đồng/kg

18.770

Thái Nguyên

đồng/kg

19.340

Xem bảng giá chi tiết hơn

Vicem hướng tới công nghệ mới ngành Xi măng

Xem các video khác

Thăm dò ý kiến

Theo bạn, yếu tố nào thúc đẩy tiêu thụ VLXD hiện nay?