>>
Nhìn lại xuất khẩu xi măng năm 2014 (P1)
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan cho biết, tròn năm 2014, thị
trường
xuất khẩu xi măng lớn nhất của Việt Nam là Bangladesh chiếm đến
38% tổng sản lượng xi măng xuất khẩu. Một số thị trường xuất khẩu chủ
yếu khác nữa phải kể đến như Singapore, Hong Kong, Malaysia, Đài Loan,
Philippines và Indonesia… Trong đó thị trường xuất khẩu sang Indonesia
được dự báo sẽ tiếp tục tăng trong năm 2015. Xi măng xuất khẩu của Việt
Nam được nhập khẩu thông qua 3 đơn vị nhập khẩu chính là Biroute, Holcim
và HC Trading. Cả 3 nhà nhập khẩu xi măng này đều tập trung nhập khẩu
trực tiếp từ các doanh nghiệp
sản xuất xi măng của Việt Nam. Điển hình
như Biroute nhập khẩu chủ yếu từ Tổng Công ty Vicem, Vicem Hoàng Thạch,
Xi măng Cẩm Phả, Xi măng Phúc Sơn…
Biroute
(3,6 triệu tấn)
| Holcim
(2,2 triệu tấn)
| HC Trading
(1,5 triệu tấn)
| MI (0,78 triệu tấn);
Trade Resource (0,76 triệu tấn) | SCG Trading
(0,73 triệu tấn)
| Peakward
(0,68 triệu tấn) |
- Nhập khẩu từ Vicem, Vicem Hoàng Thạch, Cẩm Phả, Phúc Sơn;
- Chỉ 22% qua thương mại;
- Thị trường chính: Bangladesh, Hong Kong, Malaysia, Philippines.
| - Ưu tiên ký hợp đồng cố định cả năm;
- Nhà cung cấp chính là Vissai, Phúc Sơn;
- Thị trường chính: Bangladesh, Australia, Philippines.
| Nhập khẩu theo hợp đồng cố định, dài hạn, đôi khi theo chuyến;
- Nhà cung cấp chính là Vissai, Phúc Sơn, Vicem, Vicem Hoàng Thạch, Nam Phương;
- Thị trường chính: Bangladesh, các quốc gia châu Phi.
| - Chỉ nhập khẩu cho thị trường Bangladesh;
- Nhà cung cấp chính là Phương Bắc/ Long Sơn.
| - Thị trường chính: Bangladesh;
- Nhà cung cấp chính là Thăng Long Vina.
| - Thị trường chính: Bangladesh, có 1 chuyến cho Hong Kong;
- Nhà cung cấp chính là Trường Thành, Vicem, Nam Phương.
|
Dự kiến trong năm 2015,
tiêu thụ xi măng trong nước vẫn tăng, tuy nhiên
Việt Nam vẫn cần phải tính đến phương án xuất khẩu xi măng, clinker để
cân bằng cung – cầu do dư thừa 10 triệu tấn sau khi trừ đi lượng xi măng
dự kiến tiêu thụ trong nước khoảng 51 – 52 triệu tấn và xuất khẩu từ 19
– 20 triệu tấn.
Không thể phủ nhận việc
xuất khẩu xi măng và clinker giúp các nhà sản
xuất trong nước bình ổn được cán cân cung cầu, đem lại nguồn tài chính
đáng kể cho doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, hiện nay, các đơn vị
sản xuất xi măng có thị trường xuất khẩu ngày càng có kinh nghiệm, giúp nâng
cao uy tín của các
doanh nghiệp xi măng trong các thương vụ thương mại
quốc tế.
Trong năm 2015, còn có nhiều yếu tố khách quan mang lại điều kiện thuận
lợi cho việc xuất khẩu như chênh lệch tỷ giá giữa USD/VND, hay như giá
xăng dầu hiện đang ở mức thấp, sẽ hỗ trợ và làm giảm giá cước vận tải…
Bên cạnh những thuận lợi không thể thiếu những thách thức do nguồn cung
từ các thị trường mang lại. Trong năm 2015, đánh dấu sự quay trở lại của
1 số nhà
xuất khẩu xi măng chính trong khu vực, khiến sản lượng xuất
khẩu từ các thị trường này sẽ tăng từ 5 – 6 triệu tấn do hàng loạt các
dây chuyền mới đi vào hoạt động, nhu cầu tiêu thụ nội địa giảm.
Tại Nhật Bản, nhu cầu tiêu thụ xi măng trong nước thấp, khiến sản lượng
xuất khẩu tăng khoảng 0,3 – 0,5 triệu tấn, giá FOB khoảng 36 USD/tấn,
mức xếp 12.000 – 15.000 tấn/ngày, chất lượng clinker khá tốt. Trong khi
đó, Hàn Quốc cũng tăng khoảng 0,5 triệu tấn, giá FOB chỉ rơi vào 32 – 33
USD/tấn do chất lượng clinker không cao.
Trung Quốc có lẽ là quốc gia có sản lượng xuất khẩu tăng cao nhất 2 – 3
triệu tấn, chất lượng clinker tốt nên giá FOB của Trung Quốc cũng khoảng
36 USD/tấn. Đối với nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á là Thái
Lan, cũng chủ động tăng sản lượng xuất khẩu thêm 1 triệu tấn do có nhiều
dây chuyền sản xuất mới đi vào hoạt động, giá FOB khá cao khoảng 39 –
40 USD/ tấn do chất lượng clinker tốt.
Riêng với Việt Nam, năm 2015, dự kiến nhu cầu xuất khẩu clinker chưa có
dấu hiệu tăng. Thị trường truyền thống nhập khẩu xi măng là Bangladesh
trong quý I/2015 giảm mạnh do bất ổn chính trị tại quốc gia này. Dự báo
tình hình này sẽ được cải thiện trong quý II/2015.
Tại thị trường nhập khẩu clinker Indonesia được dự báo sẽ tăng vào
khoảng cuối năm 2015, với Malaysia cũng tăng nhưng không đáng kể. Thị
trường Đài Loan dự báo sẽ gặp khó khăn do Chính phủ nước này đang có
chính sách chống bán phá giá. Đối với các nước thuộc khu vực châu Phi
tình hình không khả quan hơn khi nhu cầu tại thị trường này có thể giảm
hoặc không tăng do các dự án mới tại đây đang ở giai đoạn hoàn thiện.
Trong khi đó không thể phủ nhận cước vận tải của Việt Nam đang mất dần
lợi thế tại thị trường xuất khẩu. Chênh lệch giá cước giữa Việt Nam và
các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc không còn là lợi thế do
việc giá dầu đang ở mức thấp. Điều này vô hình chung làm giảm lợi thế
cạnh tranh của các nhà xuất khẩu Việt Nam. Các doanh nghiệp xuất xi măng
của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi xuất khẩu theo điều kiện
giao hàng CFR hoặc CIF.
Dự báo tình hình xuất khẩu xi măng trong năm 2015 chỉ ở mức duy trì sản
lượng 4 - 5 triệu tấn xuất khẩu nhờ vào nhu cầu tiêu thụ tại các thị
trường Indonesia, Lào và Campuchia.
Giá xuất khẩu xi măng có thể giảm
nhẹ để làm tăng khả năng cạnh tranh cước vận tải.
Đối với xuất khẩu clinker dự kiến sẽ giảm xuống còn 12 – 13 triệu tấn do
các thị trường xuất khẩu như Trung Quốc, Thái Lan và Hàn Quốc cạnh
tranh gay gắt. Giá clinker xuất khẩu sẽ chịu nhiều áo lực và biến động
mạnh vì các đơn vị xuất khẩu chỉ ký kết giao hàng theo chuyến và phụ
thuộc nhiều vào thị trường Bangladesh.
Quỳnh Trang (ximang.vn/ TL xuất khẩu xi măng)