Theo đánh giá của Bộ Xây dựng, Việt Nam có nhiều tiềm năng về tài nguyên phục vụ cho
sản xuất xi măng. Đây được xem là lợi thế cho xuất khẩu sản phẩm này, đồng thời đem lại nguồn giá trị không nhỏ cho đất nước.
Hiện nay, cả nước có 74 dây chuyền
sản xuất xi măng, tổng công suất thiết thế khoảng 77,36 triệu tấn/năm, công suất huy động ước đạt khoảng 72 - 73 triệu tấn, công suất toàn
ngành xi măng khai thác khoảng 96%. Trong năm 2014, Việt Nam vươn lên xếp thứ 5 Thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ, Iran và Mỹ về sản lượng
xuất khẩu xi măng.
Mục tiêu lâu dài mà ngành xi măng cần hướng tới là xây dựng lộ trình xuất khẩu xi măng bền vững. Do thời gian qua, thị trường
xuất khẩu xi măng của Việt Nam chỉ tập trung vào một số thị trường, còn phụ thuộc khá nhiều vào các khâu trung gian khiến cho việc xuất khẩu của các
doanh nghiệp xi măng đạt hiệu quả chưa cao.
Theo nhận xét
giá xi măng xuất khẩu của Việt Nam không ổn định, đầu năm 2014,
giá xi măng xuất khẩu rơi vào khoảng 38 USD/tấn, tăng dần tới đỉnh là 39,5 - 40 USD/tấn, nhưng sau đó đã giảm dần vào cuối năm 2014, kéo theo sự sụt giảm về sản lượng xuất khẩu đầu năm 2015.
Nguyên nhân chính được cho là do các
doanh nghiệp xi măng phân tán nhỏ lẻ, xuất khẩu chỉ tập trung vào một số thị trường truyền thống. Hoạt động xuất khẩu lại bị phụ thuộc vào kênh trung gian, với 5 nhà nhập khẩu chính, chiếm tới 70% khối lượng xuất khẩu của Việt Nam, nên nhiều
doanh nghiệp xi măng bị ép giá.
Theo ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) phân tích, hầu hết các doanh nghiệp đều mới gia nhập thị trường thương mại quốc tế, nên chưa có nhiều kinh nghiệm trong buôn bán quốc tế, cạnh tranh thương trường, cũng như đáp ứng các quy định khắt khe của các nhà nhập khẩu, nên chưa ký được hợp đồng dài hạn mà phần lớn là những hợp đồng ngắn hạn. Với năng lực tài chính có hạn, các doanh nghiệp sản xuất dễ bị các đối tác ép giá bán khi gặp phải áp lực giải phóng hàng tồn kho.
Có thể thấy, hiện nay thị trường tiêu thụ thông qua xuất khẩu xi măng chỉ được các doanh nghiệp lựa chọn là giải pháp tình thế điều tiết cung cầu trong khi thị trường tiêu thụ nội địa đang có dấu hiệu chững lại.
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, trong năm 2014 đã có 107 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu xi măng, trong đó có 20 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu cao trên 10 triệu USD, chiếm tỷ trọng 10%. Với 912,44 triệu USD giá trị xuất khẩu mà
ngành xi măng đạt được, nguồn ngoại tệ từ
xuất khẩu xi măng đã góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu chung, mang lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp, góp phần ổn định thị trường tiêu thụ và giảm bớt gánh nặng tiêu thụ nội địa, giảm lượng tồn kho.
Tuy nhiên, theo đại diện của Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam, một trong những khó khăn của các đơn vị sản xuất, xuất khẩu xi măng là giao thông khó khăn, phí vận chuyển gia tăng do ảnh hưởng của giá nguyên liệu đầu vào và biến động kinh tế.
Theo TS Phạm Nguyên Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu thương mại, thực tế
xuất khẩu xi măng vẫn chưa được các doanh nghiệp nhìn nhận đầy đủ là chiến lược kinh doanh lâu dài, khi xem đây là giải pháp tình thế khi tiêu thụ trong nước khó khăn. Thế nhưng, thực tế với lợi thế là ba phần tư diện tích đồi núi, phần lớn là núi đá vôi, doanh nghiệp có dây chuyền và công nghệ hiện đại, đội ngũ cán bộ tố, đường bờ biển dài thì Việt Nam là một trong những nước có lợi thế phát triển xi măng.
Tuy nhiên, ông Minh cho rằng không xuất khẩu xi măng bằng mọi giá mà phải chọn lọc và có lộ trình. Theo đó, cần đầu tư cho hệ thống cảng chuyên dùng đảm bảo tiêu chuẩn cho tàu ít nhất 30 nghìn tấn trở lên; tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu; đầu tư công nghệ hiện đại. Đồng thời, thiết lập các khuôn khổ pháp lý trong đàm phán, ký kết hiệp định để các doanh nghiệp chủ động tổ chứ khảo sát, nghiên cứu thị trường và có bước đi phù hợp. Đặc biệt, có sự thống nhất giá giữa các
nhà máy xi măng để tránh tình trạng bị ép giá, hướng tới phát triển bền vững cho ngành xuất khẩu này.
Quỳnh Trang (TH)