>> Nhiên liệu thay thế và việc sử dụng nhiên liệu thay thế (P1)
>> Nhiên liệu thay thế và việc sử dụng nhiên liệu thay thế (P2)
>> Nhiên liệu thay thế và việc sử dụng nhiên liệu thay thế (P3)
>> Nhiên liệu thay thế và việc sử dụng nhiên liệu thay thế (P4)
>> Nhiên liệu thay thế và việc sử dụng nhiên liệu thay thế (P5)
6.2. Rác sinh hoạt/RDF
Ví dụ ở Đức
Nhiệt năng có trong rác sinh hoạt gấp 2 lần tiêu hao năng lượng cho sản xuất xi măng.
Tuy nhiên, việc sử dụng toàn bộ nhiệt năng từ rác sinh hoạt thô trong công nghiệp xi măng là không khả thi. Nguyên nhân:
- Độ đồng nhất kém, kích cỡ không thích hợp, khó xử lý;
- Hàm lượng Cl-0,5... 1% gây ra các sự cố bám dính lò;
- Nhiệt trị thấp (8 đến 10MJ/kg);
- Mật độ thấp và chi phí vận chuyển trên một đơn vị nhiệt cao;
- Sự cạnh tranh với các lò đốt rác hiện có.
Kết luận:
Rác thải sinh hoạt cần được xử lý nhiều để loại bỏ những phần không mong muốn và thu được các thành phần có thể đốt được một cách hợp lý. Những phần như vậy có thể chiếm 30 -50% lượng rác thải ban đầu, phần còn lại cần được xử lý thêm.
Phần có thể đốt được gọi là RDF (Refuse Derived Fuel) và có một số tính chất tốt hơn, ví dụ CV 12... 16MJ/kg).
Ứng dụng lớn đầu tiên là BCI/Westbury. Hiện ứng dụng này đã bị dừng lại. Rất ít nhà máy có kinh nghiệm với RDF. Tập đoàn "Holderbank" Eclépens đã hiện thực hóa một ứng dụng nhỏ trong khi Obourg (lò ướt) có một dự án cho một lượng lớn RDF.
Đến nay, ứng dụng quan trọng nhất là nhà máy Wittekind ở Erwitte (Đức) theo Hình 8 với mức độ thay thế 50% và trích được khí clo.
Hình 8: Xử lý rác sinh hoạt và đốt RDF trong một lò SP
6.3. Đốt dầu thải bẩn
Việc đốt dầu thải trong công nghiệp xi măng có truyền thống từ lâu trong nhiều năm, đã có rất nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu, thăm dò các ảnh hưởng xấu của các chất gây ô nhiễm. Các chương trình đo tốn kém đã được thực hiện để làm rõ tất cả các yếu tố có thể gây ảnh hưởng tới môi trường.
Các ví dụ quan trọng đến từ Đức và Áo.
Một trong những nhà máy đầu tiên công bố kết quả đo của họ trong năm 1988 là Phoenix ở Beckum/Đức. Các nhà máy này đã đốt dầu thải có lẫn PCB (0 đến 1000ppm).
Phát thải dioxin cũng đã được đo. Dự án này đã được German Umwelbundesant (UBA) tài trợ 50%.
Các nhà máy Gmunden và Lagerdorf của Tập đoàn "Holderbank" đã thực hiện những cố gắng tương tự, thậm chí ở mức độ hoàn hảo hơn. Thiết kế của thiết bị Lagerdorf được trình bày trong hình sau.
Hình 9: Đốt dầu thải ở nhà máy Lagerdorf
Một chương trình đo lớn đã hoàn thành được một phần. Chương trình này cũng bao gồm các phép đo lượng phát thải SO2, NOx, các kim loại nặng, F, Clo hữu cơ, PCB, dioxin/furan. Nó cũng chứng minh được rằng giới hạn mới đối với dioxin 0,1ng TE/m3 (tương đương độ độc) có thể dễ dàng thỏa mãn và rằng những phát thải này không bị ảnh hưởng bởi việc đốt dầu bẩn. Ở Gmunden cũng thu được kết quả tương tự.
Những cố gắng đặc biệt cũng đã được thực hiện liên quan đến việc kiểm soát giao nhận hàng, điều đó có nghĩa phải mở rộng đáng kể phòng thí nghiệm hiện có. Các giá trị giới hạn đối với dầu thải ở Gmunden:
Lắp đặt theo hình 9 được thiết kế cho điểm chớp cháy thấp (< 20 độ C) do đó cũng có thể sử dụng để đốt các dung môi.
6.4. Đốt gỗ thải ở nhà máy Rekingen
Dự án này nhằm chế biến gỗ thải thành mùn cưa khô và đốt nó trong lò xi măng đang trong quá trình xây dựng. Khoảng 70.000 tấn/năm gỗ thải sẽ được đốt bằng vòi đố chính của một lò SP. Việc xử lý gỗ tiếp nhận bao gồm quản lý việc nhận hàng, đập sơ bộ, nghiền, phân loại hạt mịn và sấy.
Chi phí lập dự án là 25 triệu France Thụy Sĩ. Khoảng 50% than nhập có thể được thay thế bằng nguồn cung cấp tại chỗ (mà nếu không sẽ phải thải bỏ hay đốt ngoài trời). Một nghiên cứu tốn kém về các ảnh hưởng môi trường đã được yêu cầu thực hiện. Một báo cáo đệ trình đặc biệt về gỗ thải cho biết không có ảnh hưởng xấu tới sự phát thải.
Bảng so sánh các yếu tố độc hại trong gỗ thải và than (quy theo hàm năng lượng tương đương).
Bảng dưới cho thấy rằng việc thay thế than bằng gỗ không làm tăng đầu vào các yếu tố độc hại vì gỗ thải "sạch" hơn than.
Hình 10: Sử dụng gỗ thải làm nhiên liệu ở nhà máy Rekingen
ximang.vn * (Nguồn: Tạp chí Thông tin KHCN-Vicem)