Thông tin chuyên ngành Xi măng Việt Nam

Phát triển bền vững

Đánh giá khả năng thực thi của quy hoạch phát triển ngành xi măng Việt Nam

24/05/2012 3:00:43 PM

Theo Quyết định 1488/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, định hướng phát triển công nghiệp xi măng Việt Nam (CNXMVN) theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bền vững, có công nghệ tiên tiến, sản phẩm đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, đáp ứng nhu cầu thị trường; tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu và tiêu hao năng lượng thấp; bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên.

Cho đến nay, chỉ trong vòng 10 năm của thập kỷ đầu tiên thế kỷ 21, ngành XMVN đã trải qua 3 lần điều chỉnh Quy hoạch (QH) chính thức vào các năm 2002 (Quyết định 164/2002/QĐ-TTg ngày 18/11/2002), 2005 (Quyết định 105/2005/QĐ-TTg ngày 16/5/2005), và năm 2011 (Quyết định 1488/QĐ-TTg ngày 29/8/2011).

Theo Quy hoạch mới nhất, các dự án xi măng đầu tư mới (ký hợp đồng cung cấp thiết bị từ ngày Quyết định 1488/QĐ-TTg có hiệu lực - 29/8/2011) có công suất lò nung từ 2.500 tấn clanhke/ngày trở lên, phải đầu tư ngay hệ thống thiết bị tận dụng nhiệt khí thải để phát điện, trừ các dây truyền sản xuất xi măng sử dụng chất thải công nghiệp và rác thải làm nhiên liệu.

Đối với các nhà máy xi măng đang hoạt động, các dự án xi măng đang triển khai đầu tư nhưng đã ký hợp đồng cung cấp thiết bị trước ngày 29/8/2011 phải hoàn thành đầu tư hệ thống thiết bị tận dụng nhiệt khí thải để phát điện trước năm 2015.


Sẽ bỏ xi măng lò đứng vào năm 2015

Đối với các nhà máy xi măng có công suất dưới 2.500 tấn clanhke/ngày, khuyến khích nghiên cứu đầu tư hệ thống thiết bị tận dụng nhiệt khí thải để phát điện.

Đến cuối năm 2015 hoàn thành chuyển đổi công nghệ sản xuất xi măng từ lò đứng sang lò quay.

Về bố trí quy hoạch, ưu tiên đầu tư các dự án xi măng ở các tỉnh phía Nam, các vùng có điều kiện thuận lợi về nguyên liệu, có điều kiện phát triển công nghiệp, có điều kiện hạ tầng giao thông.

Đồng thời, hạn chế đầu tư các dự án xi măng ở những vùng có khó khăn về nguyên liệu, ảnh hưởng đến các di sản văn hóa, phát triển du lịch.


Các dự án có thực sự đem lại hiệu quả bền vững

Tuy vậy, việc tuân thủ quy hoạch trên của các nhà đầu tư và các cơ quan liên quan để đảm bảo thực hiện đúng các tiêu chí định hướng đưa ra, cho đến thời điểm hiện nay là điều đáng lo ngại. Quy hoạch đưa ra như một điều kiện cần, nhưng các yếu tổ đảm bảo cho khả năng thực hiện (điều kiện đủ) lại là vấn đề hoàn toàn khác. Nhất là trong bối cảnh suy thoái kinh tế với chính sách thắt chặt tín dụng, giảm thiểu đầu tư công, nếu những vướng mắc hết sức thực tiễn đang hiển hiện, không được các cơ quan có trách nhiệm xem xét tháo gỡ, thì tính khả thi của Quy hoạch có thể bị ảnh hưởng, thậm trí bị phá vỡ, biến thành Quy hoạch treo. Điều này ảnh hưởng hết sức tai hại với kinh tế đất nước.

Vì vậy, theo nhiều chuyên gia trong ngành, khả năng thực hiện quy hoạch ngành còn nhiều vấn đề cần xem xét; trong đó có các yếu tố liên quan đến những điều kiện đảm bảo cho khả năng thực hiện như các Chính sách kinh tế vĩ mô; tính đồng bộ trong Quy hoạch; Sự phối kết hợp giữa các Bộ ngành; Dự báo tình hình phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn; Vấn đề kiểm soát môi trường và tài nguyên; Vấn đề kiểm soát công nghệ trong quá trình thực hiện của các cơ quan hữu quan và hậu kiểm…

Trong bài viết này, ở một góc nhìn khác, chúng tôi xin đề cập một số vấn đề cụ thể như sau

Ảnh hưởng của Chính sách kinh tế vĩ mô

Suy thoái kinh tế đã buộc Chính phủ phải điều chỉnh các chính sách tiền tệ và đầu tư (để đạt các mục tiêu lớn hơn), giáng một đòn mạnh vào hiệu quả đầu tư và hiệu quả sản xuất kinh doanh (SXKD) của ngành. Chỉ riêng chính sách thắt chặt tín dụng lĩnh vực bất động sản đã đẩy hầu hết các dây chuyền sản xuất vào tình trạng khó khăn, không bán được hàng, chạy cầm chừng không hết công suất. Chính sách giảm đầu tư công, không bảo lãnh các khoản vay nước ngoài đã làm ngừng trệ và đảo lộn tiến trình các dự án đang triển khai đầu tư theo quy hoạch.  Chỉ riêng vấn đề này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện quy hoạch và gây lãng phí không nhỏ cho các nguồn lực của ngành.

Về tính đồng bộ trong quy hoạch

Ngành XM phát triển không thể tách rời quy hoạch mang tính liên ngành của nền kinh tế, như Tài chính Ngân hàng, Giao thông, Năng lượng, Đào tạo… Tại điều 2 của Quy hoạch 1488 trong phần Tổ chức thực hiện, Chính phủ giao cho hàng loạt Bộ ngành phối kết hợp chỉ đạo thực hiện QH, nhưng có thể nói, đến nay hiệu quả phối hợp chưa cao.

Về nguồn vốn: Ngành xi măng sẽ không thể phát triển nếu không được bố trí nguồn lực vốn cần thiết; đáp ứng kịp thời nhu cầu đầu tư, sửa chữa cải tạo cũng như vốn lưu động phục vụ cho sản xuất. Nếu quy hoạch ngành mà không đi kèm việc quy hoạch vốn hợp lý thì khả năng thực thi là rất hạn chế. XM là ngành có giá trị tài sản cố định lớn, các nhà đầu tư dù có tiềm lực tài chính mạnh đến cỡ nào, cũng cần một cơ chế chính sách huy động vốn rõ ràng để có thể tính toán hiệu quả đầu tư. Mặt khác, nếu các nhà đầu tư không có khả năng về vốn thì kiên quyết không giao dự án.

Về Giao thông: Giá thành và khả năng cạnh tranh của sản phẩm xi măng phụ thuộc mạnh mẽ vào sự thuận lợi của mạng lưới giao thông trên địa bàn (đường bộ, đường thủy, đường sắt….) ; trong đó cả bao gồm việc vận chuyển nguyên, nhiên vật liệu, vật tư đầu vào; cả việc xuất sản phẩm và vận chuyển sản phẩm đi tới các thị trường tiêu thụ… đều bị ảnh hưởng mạnh bởi cung đường vận chuyển. Các dự án XM đa phần đều thực hiện ở vùng núi, có nguồn nguyên liệu, giao thông không thuận lợi. Rõ ràng cần sự hỗ trợ của ngành Giao thông để mở các tuyến đường bộ (có thể là mới), kể cả đường sắt và đường thủy.



Thương hiệu Vicem với những trọng trách nặng nề

Năng lượng phục vụ cho ngành, trong đó quan trọng nhất là điện, than… hiện nay nguồn cung cấp đều thiếu, là vấn đề rất lớn của các nhà máy. Theo các nhà máy thì đúng là thiếu thốn đủ đường. Việc nguồn điện phập phù, một số nơi được bán theo hạn mức (khoảng 80% nhu cầu), nguồn than chậm và khó khăn… ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất và hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp xi măng (DNXM). Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, khả năng quản trị doanh nghiệp của đa phần các Công ty xi măng còn hạn chế, vấn đề này tiếp tục đè nặng lên các DNXM trong bài toán hạch toán hiệu quả SXKD.

Công nghiệp chế tạo thiết bị liên quan đến ngành cơ khí chưa đáp ứng yêu cầu. Mặc dù những năm qua đã có những tiến bộ đáng kể, nhưng tỷ trọng chế tạo thiết bị cho XM chưa được như kỳ vọng. Dẫn đến DNXM thiếu chủ động trong việc lắp đặt, chế tạo, sửa chữa lớn… Làm giảm hiệu quả hoạt động của ngành.

Công tác đào tạo: Đến thời điểm hiện nay, công tác đào tạo phục vụ ngành chưa đáp ứng yêu cầu. Các nhà đầu tư hầu hết phải tự tuyển Công nhân và kỹ sư vận hành rồi gửi đi các Trường nghề hoặc hợp đồng với các nhà máy nhưng hiệu quả chưa cao. Công nhân và kỹ sư vận hành còn mất rất nhiều thời gian (tới hàng năm) mới làm chủ được phần thiết bị công nghệ do mình phụ trách. Quản trị nhân sự chưa tốt dẫn đến trách nhiệm của kỹ sư và công nhân vận hành chưa cao, đôi khi thiếu trách nhiệm dẫn đến làm hư hỏng máy móc thiết bị. Các dự án mới đi vào sản xuất thường trả giá rất lớn cho việc này.

Kiểm soát công nghệ và môi trường

Từ những QH đầu tiên, chính phủ đã rất quan tâm đến yếu tố công nghệ và môi trường. Trong QH đều có nêu các chỉ tiêu đảm bảo về Điện năng và nhiệt năng tiêu thụ, nồng độ bụi,… Nhưng thực tế hầu hết các dự án, kể cả các dự án có công nghệ hiện đại nhất, của các nhà thầu Tây Âu năng lực nhất cũng chỉ đạt các chỉ tiêu này khi chạy thử bảo hành. Còn sau khi bàn giao đưa vào vận hành, các chủ đầu tư vận hành như thế nào là chuyện của họ, còn nhà nước chưa có cơ chế để kiểm soát vấn đề này. Chỉ khi xẩy ra các vấn đề sự cố lớn như nổ lọc bụi, người dân khiếu kiện… các cơ quan chức năng mới vào cuộc xem xét.

Về công nghệ, các QHXM đều nêu rõ: Sử dụng công nghệ tiên tiến với mức độ tự động hóa cao, tiết kiệm tối đa nguyên liệu, năng lượng trong sản xuất. Tại Quyết định 1488 còn yêu cầu đầu tư đồng bộ hệ thống thiết bị tận dụng nhiệt khí thải trong các nhà máy xi măng để phát điện.

Tuy nhiên, đối với các chủ đầu tư tư nhân và các dây chuyền công suất lò nhỏ (từ 2.500 tấn clinker/ngày trở xuống), việc nhập khẩu thiết bị công nghệ có thực sự đạt yêu cầu theo tiêu chí của QH đưa ra hay không cũng là vấn đề lớn cần xem xét. Thực tế tại khu vực phía Bắc đã có khá nhiều dây chuyền thiết bị lạc hậu, thiếu đồng bộ, giá rẻ… được lắp đặt trong giai đoạn vừa qua, hiện đi vào sản xuất gặp khá nhiều trục trặc. Một số các chủ đầu tư đã phải trả giá cho việc này. Nguyên nhân thì có nhiều trong đó cũng có nguyên nhân không tuân thủ QH; trong quá trình bàn giao thiếu đồng bộ; nhà thầu thiếu hợp tác; trình độ tiếp thu công nghệ và năng lực vận hành yếu kém dẫn đến sản xuất trục trặc, chất lượng sản phẩm không ổn định và hậu quả là không bán được hàng, chi phí đầu vào lớn, không trả được nợ và đứng trước nguy cơ phá sản.  Cho đến nay, các cấp có thẩm quyền cũng chưa có cơ chế để kiểm soát việc này.

Về việc tận dụng nhiệt khí thải trong các nhà máy xi măng để phát điện, trừ 2 nhà máy xi măng Công Thanh và Hà Tiên 2 (làm trước khi có QH), đến nay hầu như chưa có dự án nào thực hiện được. Mặc dù chủ trương này đã được bật đèn xanh nhiều năm, các Hãng thiết bị đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo triển lãm; các cơ quan quản lý nhà nước cố gắng thể chế hóa việc này nhưng đến nay dường như không được như mong muốn. Dư luận cho rằng, việc đưa vào QH chủ trương này, buộc các nhà máy phải thực hiện là lợi bất cập hại, khiến các nhà thầu đồng loạt nâng giá, khiến các chủ đầu tư tiến thoái lưỡng nan và khó có thể thực hiện trong giai đoạn hiện nay. Điều này khiến một chủ trương tốt có thể trở thành bất khả thi.


Chúng ta đã thực sự kiểm soát được công nghệ

Tổ chức quán triệt triển khai QH

Ở đây chúng tôi muốn nói đến vấn đề truyền thông để đưa các Quy định cụ thể của một ngành đi vào cuộc sống. Bản QH đã được các cơ quan chuyên môn, cơ quan quản lý, các Hội, Hiệp hội… dày công nghiên cứu, đề xuất, xem xét góp ý và phê duyệt. Tinh thần của nó phải được quảng bá lan truyền tới các Bộ ngành liên quan, tới toàn ngành xi măng, tới các nhà đầu tư, tư vấn, các hãng cung cấp thiết bị… Và nhất là cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành ở các địa phương phải thấu hiểu để làm căn cứ thực thi kiểm tra việc thực hiện. Nhưng việc này dường như khá mờ nhạt, đầu mối không rõ ràng nên bản QH chưa phát huy hết tầm của nó, nhất là ở các địa phương.

Một số vấn đề cần lưu ý trong giai đoạn hiện nay

Ngoài các luận điểm trên, với đặc thù của nền kinh tế đất nước trong giai đoạn hiện nay như chủ trương tái cơ cấu, thắt chặt tín dụng, các DN chèo chống để thoát khỏi khủng hoảng, cần lưu ý các vấn đề sau

Vấn đề thị trường: Cần có sự chỉ đạo định hướng phân kỳ đầu tư theo từng giai đoạn, để các dự án lần lượt đầu tư, lần lượt đi vào thị trường, phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế và khả năng của các nguồn lực đáp ứng. Không nên để vấn để khủng hoảng dư thừa cục bộ tại các vùng miền hoặc dư thừa tại thời điểm nào đó, dẫn đến lãng phí các nguồn lực đầu tư.

Vấn đề chuyển dịch sở hữu: Khả năng thực thi của Quy hoạch XM hiện nay liên quan chặt chẽ tới tái cấu trúc nền kinh tế, hiện đang có xu hướng chuyển dịch sở hữu mạnh mẽ từ nhà nước sang tư nhân. Thực tế cho thấy sở hữu tư nhân trong lĩnh vực xi măng sẽ làm ngành phát triển hiệu quả hơn rất nhiều, nhưng nhà nước cần có những giải pháp quản lý thực sự hữu hiệu trong các lĩnh vực sau

Về tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm: tuyệt đối không dược đưa sản phẩm kém chất lượng ra thị trường; nếu không nhà nước và xã hội sẽ rất tốn kém trong việc khắc phục hậu quả lâu dài.

Về kiểm soát môi trường: vì lợi nhuận, các công ty XM sẵn sàng vi phạm, để lại hậu quả khôn lường cho môi trường sống và cộng đồng dân cư. Nhà nước phải xử lý nghiêm các nhà máy không tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường để làm gương.

Về quản lý vốn:
Phần vốn sở hữu nhà nước trong ngành phải được bảo toàn và phát triển; trong trường hợp thoái vốn, phần vốn này phải được chuyển nhượng minh bạch rõ ràng, tránh tình trạng tư nhân bắt tay với các cá nhân quản lý vốn nhà nước, chuyển nhượng một cách bất minh, gây thất thoát vốn và lãng phí nguồn lực quốc gia.


Vấn đề cạnh tranh không lành mạnh, đẩy các DN có vốn nhà nước thua lỗ kéo dài, tiến tới cổ phần hóa hoặc thôn tính phần vốn sở hữu nhà nước, gây thất thoát lãng phí.


Các dự án đầu tư tư nhân tham mua thiết bị giá rẻ, dễ dàng nhập khẩu dây chuyền thiết bị lạc hậu, năng suất thấp… sau một thời gian có thể biến VN thành bãi thải thiết bị công nghệ XM hết tuổi thọ sử dụng.

Tháo gỡ vấn đề về vốn

Vốn cho đầu tư: Để đảm bảo hơn tính thực thi của QHXM nhà nước cần tiếp tục có các chính sách về hỗ trợ vốn vay cho các dự án có yếu tố vốn nhà nước đang đầu tư dang dở để bảo toàn vốn và đáp ứng nhu cầu thị trường khi kinh tế phục hồi.

Vốn cho sản xuất và giải cứu thị trường đầu ra: Thực tế hiện nay nhiều NMXM thiếu vốn lưu động để sản xuất, phục vụ cho việc mua nguyên nhiên liệu đầu vào như điện, than, dầu, phụ gia, trả lương nhân công… Mặt khác thị trường Bất động sản, đầu ra chính của ngành xi măng chưa có dấu hiệu phục hồi rõ rệt do hậu quả của chính sách thắt chặt tín dụng vừa qua, làm cho xi măng tồn kho lớn, không bán được hàng, khó khăn chồng chất. Nhà nước cần có sự điều chỉnh cần thiết, mở van tín dụng hợp lý để giải cứu các DNXM qua lúc khó khăn này.%


Ths Lương Xuân Tuân, Tạp chí VLXD

 

TIN MỚI

ĐỌC NHIỀU NHẤT

banner vicem 2023
banner mapei2
bannergiavlxd
faq

Bảng giá :

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee

1.000đ/tấn

1.800

Starcemt

1.000đ/tấn

1.760

Chifon

1.000đ/tấn

1.530

Hoàng Thạch

1.000đ/tấn

1.490

Bút Sơn

1.000đ/tấn

1.450

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee đa dụng

1.000đ/tấn

1.830

Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.670

Vicem Hà Tiên

1.000đ/tấn

1.650

Tây Đô

1.000đ/tấn

1.553

Hà Tiên - Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.440

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Xem bảng giá chi tiết hơn

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.940

Việt Ý

đồng/kg

18.890

Việt Đức

đồng/kg

18.880

Kyoei

đồng/kg

18.880

Việt Nhật

đồng/kg

18.820

Thái Nguyên

đồng/kg

19.390

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

19.040

Việt Ý

đồng/kg

18.990

Việt Đức

đồng/kg

19.180

Kyoei

đồng/kg

19.080

Việt Nhật

đồng/kg

18.920

Thái Nguyên

đồng/kg

19.540

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.890

Việt Ý

đồng/kg

18.840

Việt Đức

đồng/kg

18.830

Kyoei

đồng/kg

18.830

Việt Nhật

đồng/kg

18.770

Thái Nguyên

đồng/kg

19.340

Xem bảng giá chi tiết hơn

Vicem hướng tới công nghệ mới ngành Xi măng

Xem các video khác

Thăm dò ý kiến

Theo bạn, yếu tố nào thúc đẩy tiêu thụ VLXD hiện nay?