Hai năm sau thời điểm làn sóng các doanh nghiệp nước ngoài ồ ạt tham gia vào
thị trường xi măng Việt Nam, đến nay, mục tiêu đó vẫn đang được tiếp tục thực hiện.
Điển hình là Tập đoàn Semen Indonesia đã chính thức sở hữu Công ty CP
Xi măng Thăng Long vào tháng 12/2012, sau khi mua lại 70% cổ phần từ tay của Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp Hà Nội (Geleximco).
Hiện
tại, công suất dây chuyền 1 và trạm nghiền của Xi măng Thăng Long là
2,3 triệu tấn. Dây chuyền 2 của Xi măng Thăng Long đã được Chính phủ cho
phép đầu tư trong Quy hoạch Phát triển Công nghiệp Xi măng Việt Nam đến
2020, định hướng đến 2030 với công suất tương tự dây chuyền 1.
Theo
kế hoạch tổng thể, Xi măng Thăng Long sẽ mở rộng năng lực sản xuất
thông qua hai công ty con là Công ty CP Xi măng Thăng Long 2 (TLCC2) và
Công ty CP Xi măng An Phú (APCC) nhằm nâng tổng công suất sản xuất lên
6,3 triệu tấn xi măng/năm.
Hiện nay, Công ty
Xi măng Thăng Long
đã hoạt động hết công suất 2,5 triệu tấn một năm nên việc xây dựng thêm
một nhà máy mới ở khu vực phía Nam là cần thiết. Khi nhà máy đi vào
hoạt động sẽ đáp ứng nhu cầu thị trường đang gia tăng, không chỉ ở Việt
Nam mà cả ở các nước ASEAN khác như Singapore, Campuchia, Lào và
Myanmar.
Vừa qua, Giám đốc tài chính Tập đoàn Semen Indonesia,
ông Ahyanizzaman cho biết, sắp tới Semen Indonesia sẽ chi 85,6 triệu USD
để mở rộng hoạt động, bao gồm kế hoạch thâu tóm một Công ty Việt Nam.
Thời
điểm này Semen Indonesia đang tiến hành kiểm toán và thẩm tra chi tiết
một Công ty tư nhân tại Việt Nam, chiếm khoảng 4% thị phần
sản xuất và tiêu thụ xi măng tại Việt Nam. Phía Semen Indonesia dự kiến thương vụ mua bán này sẽ được hoàn thành vào cuối quý II năm nay 2015.
Không
thể phủ nhận những tác động tích cực của các doanh nghiệp nước ngoài
sau thi gia nhập vào thị trường xi măng Việt Nam đã làm thay đổi diện
mạo của các
doanh nghiệp xi măng
trong nước đang gặp khó khăn, thúc đẩy ngành xi măng tăng trưởng. Năm
2014, tổng sản lượng tiêu thụ xi măng tăng 15% so với năm 2013. Trong
đó,
tiêu thụ xi măng trong nước đạt 50,98 triệu tấn, tăng 40% so với năm 2010 đây là thời điểm chạm đáy của khủng hoảng, riêng về phần
xuất khẩu xi măng đạt 19,5 triệu tấn, vượt mục tiêu cả năm và đạt doanh thu gần 1 tỷ USD.
Mới đây, Công ty CP StoxPlus phân tích chỉ ra những yếu điểm của
ngành xi măng Việt Nam được đăng trên Tạp chí Xi măng quốc tế (thuộc Hiệp hội Các nhà sản xuất xi măng ở Anh).
Theo
đó, các nhà phân tích nhận định chung quy mô sản xuất của ngành xi măng
còn nhỏ, năng suất thấp dẫn tới chi phí sản xuất bị đẩy lên cao. Tỷ lệ
lợi nhuận trước khấu hao, thuế và chi phí lãi vay (EBITDA) có biên độ
thấp.
Phần lớn các
nhà máy xi măng
Việt Nam chỉ có mức EBITDA từ 15 đến 20%, trong khi các thị trường
trong khu vực khoảng 25-30%. Trừ một vài nhà máy khu vực phía Nam, còn
lại các cơ sở sản xuất xi măng không sử dụng hết công suất. Hiệu suất sử
dụng trung bình năm 2012 chỉ quanh mức 77%, thậm chí các nhà máy phía
Bắc chỉ đạt 63%.
Khó khăn tiếp theo là chi phí nhiên liệu cao và
nguồn nhiên liệu thay thế hạn chế. Hiện nguồn nhiên liệu như than, ga và
điện chiếm 64% chi phí sản xuất clinker ở Việt Nam, cao hơn nhiều so
với mức bình quân trong khu vực. Ngoài ra, việc sử dụng nguồn nhiên liệu
thay thế và nguyên vật liệu thô thường được áp dụng ở các nước khác để
giảm chi phí lại không phổ biến ở Việt Nam do chi phí sản xuất cao.
Bên cạnh đó,
ngành xi măng
Việt Nam phát triển sau Thái Lan khoảng 1 thập kỷ và sau Trung Quốc
khoảng 20 năm. Do đó, trong khi các nhà máy xi măng Trung Quốc và Thái
Lan đã hết khấu hao và trả được nợ, thì các nhà máy của Việt Nam chỉ mới
bắt đầu, dẫn đến việc khấu hao lớn, chi phí lãi vay cao.
Thứ tư,
đòn bẩy tài chính cao. Việc phát triển các cơ sở sản xuất xi măng Việt
Nam dựa chủ yếu vào vốn đi vay, đặc biệt là các khoản vay bằng ngoại tệ.
Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của các Công ty xi măng niêm yết hiện ở
mức 3,9 lần, thậm chí ở Xi măng Hạ Long lên tới 11,5 lần,
Xi măng Cẩm Phả là 22,3 lần.
Ngoài ra, ngành xi măng Việt Nam còn thiếu chiến lược xuất khẩu dài
hạn. Theo nhận định của StoxPlus, trong khi các hợp đồng xuất khẩu dài
hạn mang lại mức doanh thu tốt hơn, thì các
doanh nghiệp xi măng
của Việt Nam không đảm bảo việc này. Các nhà sản xuất xi măng trong
nước chưa có chiến lược xuất khẩu dài hạn, vẫn coi xuất khẩu chỉ là
phương án tạm thời, hoặc mang tính thời vụ trong khi nhu cầu trong nước
chưa thật sự bứt phá. Điều này khiến các
doanh nghiệp xi măng
thiếu chú trọng đầu tư vào thị trường này do chưa khai thác được một
cách hiệu quả nên chỉ xem đây là giải pháp bình ổn cán cân cung cầu.
Mục
tiêu trong vòng 25 năm tới, Việt Nam sẽ chú trọng đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng, đặc biệt là sẽ triển khai xây dựng các công trình hạ tầng
giao thông từ nay đến năm 2020.
Đây là tín hiệu tốt cho các doanh nghiệp
sản xuất xi măng trong
nước khi xác định được thị trường và nhu cầu trung và dài hạn. Dự kiến,
tiêu thụ xi măng trong nước trong vòng 5 năm tới sẽ đạt khoảng 51-53
triệu tấn, nhưng xuất khẩu vẫn chỉ tương đưởng ở mức 20 triệu tấn/năm.
Theo
báo cáo của StoxPlus, cho dù nhu cầu tiêu thụ xi măng trong nước của
Việt Nam vẫn tăng trưởng đều 5,5% mỗi năm, đến năm 2026, sản lượng sản
xuất xi măng trong nước vẫn vượt xa so với nhu cầu. Tình trạng này kéo
dài đòi hỏi các nhà đầu tư cũng phải thay đổi tư duy tức thời, nếu muốn
doanh nghiệp tiếp tục kinh doanh có lãi.
Thời gian qua, các nhà
sản xuất xi măng trong nước đã có những bước đi nhằm thay đổi cục diện
này. Từ năm 2010, họ đã xuất khẩu một lượng xi măng, clinker ổn định, từ
mức 0,7 triệu tấn năm 2010 tăng lên 9 triệu tấn năm 2012, 15 triệu tấn
năm 2013 và 19,5 triệu tấn năm 2014. Những thị trường xuất khẩu chủ lực
là Bangladesh, Indonesia, Philippines, Đài Loan, Malaysia.
Nhận
định về nhu cầu xi măng Thế giới trong năm 2014 vừa qua, cho thấy có rất
nhiều thuận lợi cho các nhà sản xuất xi măng Việt Nam, trong khi các
nhà sản xuất khác ở châu Á như Trung Quốc, Thái Lan và Indonesia không
thể tăng công suất. Thế nhưng, lợi thế này sẽ bị giảm dần kể từ năm 2015
trở đi khi các đối thủ đó kịp cải thiện công suất, giành lại thị phần
bị bỏ ngỏ trong thời gian qua.
Hiện nay, ngành xi măng đã có cái
nhìn tích cực dành cho xuất khẩu, nhưng xét về khía cạnh hiệu quả lâu
dài thì cái các doanh nghiệp Việt Nam còn bị hạn chế một phần là do hệ
thống cảng biển của Việt Nam lại không đáp ứng được nhu cầu sử dung.
Đến nay, mới chỉ có các doanh nghiệp như Xi măng Thăng Long,
Xi măng Chinfon, Xi măng Cẩm Phả là có thể tận dụng được lợi thế cảng biển và là một trong những điểm sáng về
xuất khẩu xi măng của Việt Nam.
Để
thực khai thác hết được chiến lược xuất khẩu xi măng hiệu quả, Việt Nam
cần bố trí xây dựng các nhà máy xi măng lớn gần cảng, với nguồn nguyên
vật liệu thô tốt và công nghệ sản xuất hiện đại để có thể đáp ứng, cạnh
tranh trên chính thị trường trong nước với các đối thủ nước ngoài và
vươn ra thị trường thế giới.
Một điển hình cần nhắc đến như một điểm sáng trong
xuất khẩu xi măng
là Công ty TNHH Tập đoàn Hoàng Phát Vissai Ninh Bình (The Vissai). Hiện
The Vissai sở hữu 4 nhà máy xi măng với tổng công suất 13,6 triệu tấn
năm. Doanh nghiệp xi măng này sở hữu quyền khai thác nguyên vật liệu
thô kết hợp với công nghệ hiện đại, chi phí nguyên liệu thô rẻ. Đặc
biệt, The Vissai sở hữu một hệ thống gồm 70 nhà phân phối, xuất khẩu
sang 30 nước và vùng lãnh thổ.
Năm 2010, trong lúc
ngành xi măng
đang rơi vào tình trạng cung vượt cầu, thì The Vissai lại mang về một
hợp đồng xuất khẩu 1,2 triệu tấn clinker/năm cho Bangladesh. Đó là bước
đệm để mỗi năm The Vissai xuất khẩu tới 1/3 sản lượng sản xuất của doanh
nghiệp.
Như vậy, có thể thấy, bên cạnh sự tham gia đầu tư của
các doanh nghiệp nước ngoài vào thị trường xi măng Việt Nam còn có sự tự
lột xác của môtj vài đơn vị sản xuất xi măng trong nước. Điều này khẳng
định ngành xi măng không hoàn toàn phụ thuộc vào các nhà đầu tư nước
ngoài, các
doanh nghiệp xi măng trong nước vẫn là những nhân tố cốt lõi.
Quỳnh Trang (TH)