Thông tin chuyên ngành Xi măng Việt Nam

Thị trường xi măng

Thị trường xi măng - Cơ hội chia đều cho cả doanh nghiệp trong và ngoài nước

18/05/2015 11:29:41 AM

Bên cạnh sự xuất hiện của các doanh nghiệp xi măng nước ngoài đối với thị trường xi măng Việt Nam, còn có sự hiện diện của những doanh nghiệp trong nước góp phần khẳng định năng lực đối với ngành xi măng trong nước. Cơ hội giành thị phần xi măng hiện nay được cho là chia đều cho cả doanh nghiệp xi măng trong và ngoài nước.


Xi măng Thăng Long là một trong những doanh nghiệp xi măng thành công sau khi về tay Tập đoàn Semen Indonesia.

Hai năm sau thời điểm làn sóng các doanh nghiệp nước ngoài ồ ạt tham gia vào thị trường xi măng Việt Nam, đến nay, mục tiêu đó vẫn đang được tiếp tục thực hiện.

Điển hình là Tập đoàn Semen Indonesia đã chính thức sở hữu Công ty CP Xi măng Thăng Long vào tháng 12/2012, sau khi mua lại 70% cổ phần từ tay của Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp Hà Nội (Geleximco).

Hiện tại, công suất dây chuyền 1 và trạm nghiền của Xi măng Thăng Long là 2,3 triệu tấn. Dây chuyền 2 của Xi măng Thăng Long đã được Chính phủ cho phép đầu tư trong Quy hoạch Phát triển Công nghiệp Xi măng Việt Nam đến 2020, định hướng đến 2030  với công suất tương tự dây chuyền 1.

Theo kế hoạch tổng thể, Xi măng Thăng Long sẽ mở rộng năng lực sản xuất thông qua hai công ty con là Công ty CP Xi măng Thăng Long 2 (TLCC2) và Công ty CP Xi măng An Phú (APCC) nhằm nâng tổng công suất sản xuất lên 6,3 triệu tấn xi măng/năm.

Hiện nay, Công ty Xi măng Thăng Long đã hoạt động hết công suất 2,5 triệu tấn một năm nên việc xây dựng thêm một nhà máy mới ở khu vực phía Nam là cần thiết. Khi nhà máy đi vào hoạt động sẽ đáp ứng nhu cầu thị trường đang gia tăng, không chỉ ở Việt Nam mà cả ở các nước ASEAN khác như Singapore, Campuchia, Lào và Myanmar.

Vừa qua, Giám đốc tài chính Tập đoàn Semen Indonesia, ông Ahyanizzaman cho biết, sắp tới Semen Indonesia sẽ chi 85,6 triệu USD để mở rộng hoạt động, bao gồm kế hoạch thâu tóm một Công ty Việt Nam.

Thời điểm này Semen Indonesia đang tiến hành kiểm toán và thẩm tra chi tiết một Công ty tư nhân tại Việt Nam, chiếm khoảng 4% thị phần sản xuất và tiêu thụ xi măng tại Việt Nam. Phía Semen Indonesia dự kiến thương vụ mua bán này sẽ được hoàn thành vào cuối quý II năm nay 2015.

Không thể phủ nhận những tác động tích cực của các doanh nghiệp nước ngoài sau thi gia nhập vào thị trường xi măng Việt Nam đã làm thay đổi diện mạo của các doanh nghiệp xi măng trong nước đang gặp khó khăn, thúc đẩy ngành xi măng tăng trưởng. Năm 2014, tổng sản lượng tiêu thụ xi măng tăng 15% so với năm 2013. Trong đó, tiêu thụ xi măng trong nước đạt 50,98 triệu tấn, tăng 40% so với năm 2010 đây là thời điểm chạm đáy của khủng hoảng, riêng về phần xuất khẩu xi măng đạt 19,5 triệu tấn, vượt mục tiêu cả năm và đạt doanh thu gần 1 tỷ USD.

Mới đây, Công ty CP StoxPlus phân tích chỉ ra những yếu điểm của ngành xi măng Việt Nam được đăng trên Tạp chí Xi măng quốc tế (thuộc Hiệp hội Các nhà sản xuất xi măng ở Anh).

Theo đó, các nhà phân tích nhận định chung quy mô sản xuất của ngành xi măng còn nhỏ, năng suất thấp dẫn tới chi phí sản xuất bị đẩy lên cao. Tỷ lệ lợi nhuận trước khấu hao, thuế và chi phí lãi vay (EBITDA) có biên độ thấp.

Phần lớn các nhà máy xi măng Việt Nam chỉ có mức EBITDA từ 15 đến 20%, trong khi các thị trường trong khu vực khoảng 25-30%. Trừ một vài nhà máy khu vực phía Nam, còn lại các cơ sở sản xuất xi măng không sử dụng hết công suất. Hiệu suất sử dụng trung bình năm 2012 chỉ quanh mức 77%, thậm chí các nhà máy phía Bắc chỉ đạt 63%.

Khó khăn tiếp theo là chi phí nhiên liệu cao và nguồn nhiên liệu thay thế hạn chế. Hiện nguồn nhiên liệu như than, ga và điện chiếm 64% chi phí sản xuất clinker ở Việt Nam, cao hơn nhiều so với mức bình quân trong khu vực. Ngoài ra, việc sử dụng nguồn nhiên liệu thay thế và nguyên vật liệu thô thường được áp dụng ở các nước khác để giảm chi phí lại không phổ biến ở Việt Nam do chi phí sản xuất cao.

Bên cạnh đó, ngành xi măng Việt Nam phát triển sau Thái Lan khoảng 1 thập kỷ và sau Trung Quốc khoảng 20 năm. Do đó, trong khi các nhà máy xi măng Trung Quốc và Thái Lan đã hết khấu hao và trả được nợ, thì các nhà máy của Việt Nam chỉ mới bắt đầu, dẫn đến việc khấu hao lớn, chi phí lãi vay cao.

Thứ tư, đòn bẩy tài chính cao. Việc phát triển các cơ sở sản xuất xi măng Việt Nam dựa chủ yếu vào vốn đi vay, đặc biệt là các khoản vay bằng ngoại tệ. Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của các Công ty xi măng niêm yết hiện ở mức 3,9 lần, thậm chí ở Xi măng Hạ Long lên tới 11,5 lần, Xi măng Cẩm Phả là 22,3 lần.


Tập đoàn Xi măng The Vissai là điểm sáng của doanh nghiệp xi măng trong nước.

Ngoài ra, ngành xi măng Việt Nam còn thiếu chiến lược xuất khẩu dài hạn. Theo nhận định của StoxPlus, trong khi các hợp đồng xuất khẩu dài hạn mang lại mức doanh thu tốt hơn, thì các doanh nghiệp xi măng của Việt Nam không đảm bảo việc này. Các nhà sản xuất xi măng trong nước chưa có chiến lược xuất khẩu dài hạn, vẫn coi xuất khẩu chỉ là phương án tạm thời, hoặc mang tính thời vụ trong khi nhu cầu trong nước chưa thật sự bứt phá. Điều này khiến các doanh nghiệp xi măng thiếu chú trọng đầu tư vào thị trường này do chưa khai thác được một cách hiệu quả nên chỉ xem đây là giải pháp bình ổn cán cân cung cầu.

Mục tiêu trong vòng 25 năm tới, Việt Nam sẽ chú trọng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là sẽ triển khai xây dựng các công trình hạ tầng giao thông từ nay đến năm 2020.

Đây là tín hiệu tốt cho các doanh nghiệp sản xuất xi măng trong nước khi xác định được thị trường và nhu cầu trung và dài hạn. Dự kiến, tiêu thụ xi măng trong nước trong vòng 5 năm tới sẽ đạt khoảng 51-53 triệu tấn, nhưng xuất khẩu vẫn chỉ tương đưởng ở mức 20 triệu tấn/năm.

Theo báo cáo của StoxPlus, cho dù nhu cầu tiêu thụ xi măng trong nước của Việt Nam vẫn tăng trưởng đều 5,5% mỗi năm, đến năm 2026, sản lượng sản xuất xi măng trong nước vẫn vượt xa so với nhu cầu. Tình trạng này kéo dài đòi hỏi các nhà đầu tư cũng phải thay đổi tư duy tức thời, nếu muốn doanh nghiệp tiếp tục kinh doanh có lãi.

Thời gian qua, các nhà sản xuất xi măng trong nước đã có những bước đi nhằm thay đổi cục diện này. Từ năm 2010, họ đã xuất khẩu một lượng xi măng, clinker ổn định, từ mức 0,7 triệu tấn năm 2010 tăng lên 9 triệu tấn năm 2012, 15 triệu tấn năm 2013 và 19,5 triệu tấn năm 2014. Những thị trường xuất khẩu chủ lực là Bangladesh, Indonesia, Philippines, Đài Loan, Malaysia.

Nhận định về nhu cầu xi măng Thế giới trong năm 2014 vừa qua, cho thấy có rất nhiều thuận lợi cho các nhà sản xuất xi măng Việt Nam, trong khi các nhà sản xuất khác ở châu Á như Trung Quốc, Thái Lan và Indonesia không thể tăng công suất. Thế nhưng, lợi thế này sẽ bị giảm dần kể từ năm 2015 trở đi khi các đối thủ đó kịp cải thiện công suất, giành lại thị phần bị bỏ ngỏ trong thời gian qua.

Hiện nay, ngành xi măng đã có cái nhìn tích cực dành cho xuất khẩu, nhưng xét về khía cạnh hiệu quả lâu dài thì cái các doanh nghiệp Việt Nam còn bị hạn chế một phần là do hệ thống cảng biển của Việt Nam lại không đáp ứng được nhu cầu sử dung.

Đến nay, mới chỉ có các doanh nghiệp như Xi măng Thăng Long, Xi măng Chinfon, Xi măng Cẩm Phả là có thể tận dụng được lợi thế cảng biển và là một trong những điểm sáng về xuất khẩu xi măng của Việt Nam.

Để thực khai thác hết được chiến lược xuất khẩu xi măng hiệu quả, Việt Nam cần bố trí xây dựng các nhà máy xi măng lớn gần cảng, với nguồn nguyên vật liệu thô tốt và công nghệ sản xuất hiện đại để có thể đáp ứng, cạnh tranh trên chính thị trường trong nước với các đối thủ nước ngoài và vươn ra thị trường thế giới.

Một điển hình cần nhắc đến như một điểm sáng trong xuất khẩu xi măng là Công ty TNHH Tập đoàn Hoàng Phát Vissai Ninh Bình (The Vissai). Hiện The Vissai sở hữu 4 nhà máy xi măng với tổng công suất 13,6 triệu tấn năm. Doanh nghiệp xi măng  này sở hữu quyền khai thác nguyên vật liệu thô kết hợp với công nghệ hiện đại, chi phí nguyên liệu thô rẻ. Đặc biệt, The Vissai sở hữu một hệ thống gồm 70 nhà phân phối, xuất khẩu sang 30 nước và vùng lãnh thổ.

Năm 2010, trong lúc ngành xi măng đang rơi vào tình trạng cung vượt cầu, thì The Vissai lại mang về một hợp đồng xuất khẩu 1,2 triệu tấn clinker/năm cho Bangladesh. Đó là bước đệm để mỗi năm The Vissai xuất khẩu tới 1/3 sản lượng sản xuất của doanh nghiệp.

Như vậy, có thể thấy, bên cạnh sự tham gia  đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài vào thị trường xi măng Việt Nam còn có sự tự lột xác của môtj vài đơn vị sản xuất xi măng trong nước. Điều này khẳng định ngành xi măng không hoàn toàn phụ thuộc vào các nhà đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp xi măng trong nước vẫn là những nhân tố cốt lõi.

Quỳnh Trang (TH)

 

Các tin khác:

Giá xi măng, sắt thép trong tháng 5 tại một số thị trường phía Nam ()

Cần xây dựng lộ trình cho xuất khẩu xi măng ()

Gỡ "nút thắt" cho xuất khẩu xi măng ()

Cung - cầu xi măng trong nước đang ở trạng thái cân bằng ()

Đánh giá thị trường xi măng Bangladesh ()

Tình hình thị trường xi măng tại Thụy Điển ()

Dự báo về tình hình tiêu thụ xi măng toàn cầu đến 2017 ()

Năm 2015 sẽ là một năm khó khăn nhất trong xuất khẩu xi măng ()

Xuất khẩu xi măng hướng tới tăng trưởng bền vững ()

Quý I/2015: Xuất khẩu xi măng và clinker đạt hơn 4,5 triệu tấn ()

TIN MỚI

ĐỌC NHIỀU NHẤT

banner vicem 2023
banner mapei2
bannergiavlxd
faq

Bảng giá :

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee

1.000đ/tấn

1.800

Starcemt

1.000đ/tấn

1.760

Chifon

1.000đ/tấn

1.530

Hoàng Thạch

1.000đ/tấn

1.490

Bút Sơn

1.000đ/tấn

1.450

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Insee đa dụng

1.000đ/tấn

1.830

Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.670

Vicem Hà Tiên

1.000đ/tấn

1.650

Tây Đô

1.000đ/tấn

1.553

Hà Tiên - Kiên Giang

1.000đ/tấn

1.440

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Xem bảng giá chi tiết hơn

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.940

Việt Ý

đồng/kg

18.890

Việt Đức

đồng/kg

18.880

Kyoei

đồng/kg

18.880

Việt Nhật

đồng/kg

18.820

Thái Nguyên

đồng/kg

19.390

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

19.040

Việt Ý

đồng/kg

18.990

Việt Đức

đồng/kg

19.180

Kyoei

đồng/kg

19.080

Việt Nhật

đồng/kg

18.920

Thái Nguyên

đồng/kg

19.540

Chủng loại

ĐVT

Giá bán

Hòa Phát

đồng/kg

18.890

Việt Ý

đồng/kg

18.840

Việt Đức

đồng/kg

18.830

Kyoei

đồng/kg

18.830

Việt Nhật

đồng/kg

18.770

Thái Nguyên

đồng/kg

19.340

Xem bảng giá chi tiết hơn

Vicem hướng tới công nghệ mới ngành Xi măng

Xem các video khác

Thăm dò ý kiến

Theo bạn, yếu tố nào thúc đẩy tiêu thụ VLXD hiện nay?