>>
Công nghệ sản xuất của ngành xi măng Việt Nam
Hiện nay bức tranh
ngành xi măng Việt Nam đã khá rõ, đan xen giữa màu
sáng tối, phản ánh trình độ công nghệ, quy mô công suất các dây chuyền
khác nhau.
Những căn cứ định hướng được nêu trong quy hoạch chủ yếu đặt ra cho việc
kiểm soát đầu tư. Có thể nói rằng các dây chuyền
sản xuất xi măng được
đầu tư hiện nay và tương lai sẽ thuộc loại công nghệ tiên tiến, quy mô
công suất vừa và lớn.
Trong quá trình đầu tư, tiếp tục xuất hiện những công nghệ mới theo
hướng hoàn thiện tất cả các khâu công nghệ hiện có. Nhìn chung, ngành công
nghiệp xi măng Việt Nam trong thời gian 5-10 năm tới sẽ tập trung giải
quyết một số vấn đề sau:
Thứ nhất, dần loại bỏ các dây chuyền quy mô nhỏ công nghệ lạc hậu, bằng
cách tự nguyện sáp nhập vào các dây chuyền công suất lớn, từ đó tiến
hành đầu tư chiều sâu, cải tạo công nghệ, mở rộng quy mô công suất. Một
số dây chuyền thuộc loại này sẽ bị xóa bỏ, hoặc được đầu tư lại với quy
mô lớn, công nghệ hiện đại. Điều kiện để hình thành sự thay đổi là do
sức cạnh tranh kém của công nghệ lạc hậu và sự ô nhiễm môi trường vượt
quá mức cho phép. Quá trình này diễn ra chậm nhưng là quy luật khách
quan đã từng diễn ra với công nghệ
xi măng lò đứng.
Dự án xi măng có công suất dưới 2.500 tấn clinker/ngày sẽ không
được cấp phép đầu tư xây dựng nhằm đảm bảo công nghệ tiên tiến, tiết
kiệm tối đa nguyên nhiên liệu, năng lượng.
Thứ hai, đầu tư hệ thống thiết bị
tận dụng nhiệt khí thải để phát điện.
Mặc dù hiện nay đang gặp khó khăn về nguồn vốn mới có 3 dây chuyền ở
Việt Nam được đầu tư công nghệ này, nhưng hiệu quả đã rõ ràng ở trong
nước và nước ngoài. Đây là xu hướng đầu tư mà thế giới đã và đang tiến
hành có hiệu quả. Tính đến thời điểm hiện nay, toàn thế giới đã đầu tư
850 dây chuyền phát điện tận dụng nhiệt khí thải trong
sản xuất xi măng,
trong đó Trung Quốc 739 dây chuyền, Ấn Độ 26, Nhật Bản 24, Thái Lan
12, châu Âu 7, châu Mỹ 5,… Đầu tư dây chuyền phát điện tận dụng nhiệt
khí thải vừa mang lại hiệu quả kinh tế, vừa mang lại hiệu quả môi
trường, giảm bớt bụi phát thải, giảm phát thải nhiệt ra môi trường. Dự
kiến tổng lượng điện phát từ nhiệt khí thải trong lĩnh vực xi măng của
Việt Nam sẽ đạt công suất khoảng 240MW.
Thứ ba, thay đổi, bổ sung nguồn nhiên liệu, nguyên liệu từ phế thải, rác
thải. Việt Nam hiện có nguồn phế thải, rác thải rất lớn và sẽ còn tăng
lên trong tương lai. Nguồn phế thải rác thải từ tro nhiệt điện, từ công
nghiệp may mặc, da dày phế thải cao su, phế thải xây dựng, rác thải
sinh hoạt. Đây là nguồn nhiên liệu quan trọng; tro nhiệt điện đưa vào
công nghiệp xi măng như là nguyên liệu thay sét và tận dụng lượng các
bon còn lại trong tro để làm nhiên liệu. Theo kinh nghiệm của nhiều nước
sử dụng nguồn phế thải, phế liệu rác thải có thể thay thế trên dưới 10%
nhiên liệu trong
sản xuất xi măng. Việc sử dụng phế thải, phế liệu làm
nhiên liệu, nguyên liệu sẽ góp phần
bảo vệ môi trường.
Thứ tư, đẩy mạnh việc sử dụng đá vôi làm phụ gia xi măng thay thế cho đá
bazan, một số loại puzolan hiện đang sử dụng, làm tăng chất lượng xi
măng, tăng hiệu quả nghiền, giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh xi măng.
Tiếp tục nghiên cứu ứng dụng các loại vòi đốt kiểu mới, sử dụng than có
chất lượng thấp hơn làm nhiên liệu, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh,
tận dụng đước các nguồn nhiên liệu chất lượng thấp.
Thứ năm, nghiên cứu ứng dụng các thành tựu mới về công nghệ ở tất cả các
khâu trong dây chuyền sản xuất để đầu tư chiều sâu. Nghiên cứu ứng dụng
vòi đốt có sử dụng vật liệu ceramic chịu nhiệt, chịu mài mòn cao làm
đầu vòi đốt vừa tăng tuổi thọ vòi vừa tăng được độ xoáy của dòng nhiên
liệu và khí đốt (Ceramic Vortex Finder), nghiên cứu ứng dụng thiết kế
mới New design of HASLE CVF để thau đổi nhiên liệu hóa thạch. Nghiên cứu
ứng dụng công nghệ Xplate – tác động phân rã cụm phân tử thành phân tử
đơn của Vương quốc Anh làm tăng hiệu quả đốt nhiên liệu.
Nghiên cứu các giải pháp sử dụng vật liệu chịu lửa tăng thời gian vận
hành lò liên tục, giảm tổn thất nhiệt qua vỏ lò, bảo vệ lò và tăng hiệu
quả sử dụng nhiệt tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nghiên cứu ứng dụng
các phụ gia trợ nghiền thế hệ mới, các loại thạch cao nhân tạo,…
Thứ sáu, ứng dụng các công nghệ mới nhất trong việc cải tiến ghi làm lạnh, tăng năng suất lò, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thứ bảy, nghiên cứu đa dạng hóa
chủng loại xi măng,
mác xi măng, sản
xuất nhiều xi măng đặc biệt, xi măng chống ăn mòn, thực hiện hiệu quả
việc chống biến đổi khí hậu, giảm thiểu phát thải trong sản xuất,
sản xuất clinker mác cao, coi trọng việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong
công nghệ nghiền giảm chi phí điện năng trong
sản xuất xi măng.
Thứ tám, đẩy mạnh việc đổi mới trong quản lý vận hành nhà máy xi măng.
Đây là yếu tố đóng vai trò hết sức quan trọng giúp cho việc vận hành sản
xuất đảm bảo các chỉ tiêu tiêu hao thấp, chất lượng sản phẩm ổn định và
hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng, đảm bảo cho các nhân tố giúp
phát triển bền vững.
Tóm lại,
ngành xi măng Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để tiếp tục
phát triển công nghệ theo hướng tích cực. Tiến trình đầu tư cho thấy các
dự án xi măng mới và đang được đầu tư thỏa mãn các yêu cầu đặt ra. Sự
cố gắng của tất cả doanh nghiệp sẽ góp phần cho
ngành xi măng Việt Nam phát
triển
(Hết)
Nguyễn Quang Cung (Chủ tịch HHXM Việt Nam)
(Theo Tạp chí VLXD)